Danh mục

Viêm gan B – Phần 3

Số trang: 20      Loại file: pdf      Dung lượng: 209.08 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tại sao HBV trở nên kháng lại lamivudin ? Có một thách thức lớn khi dùng lamivudin trong thời gian dài sẽ làm xuất hiện một loại HBV kháng lại lamivudin. Sự đề kháng này là kết quả của sự thay đổi chất liệu di truyền của vi rút. Tỉ lệ mắc phải này gọi là YDDM và chiếm 25% sau 1 năm điều trị lamivudin và 50% sau 3 năm điều trị lamivudin.Không có tác dụng phụ quan trọng khác mà có liên quan với HBV biến thể này. Thực tế, biến thể YDMM ít tổn hại hơn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Viêm gan B – Phần 3 Viêm gan B – Phần 3Tại sao HBV trở nên kháng lại lamivudin ?Có một thách thức lớn khi dùng lamivudin trong thời gian dài sẽ làm xuất hiệnmột loại HBV kháng lại lamivudin. Sự đề kháng này là kết quả của sự thay đổichất liệu di truyền của vi rút. Tỉ lệ mắc phải này gọi là YDDM và chiếm 25% sau1 năm điều trị lamivudin và 50% sau 3 năm đi ều trị lamivudin.Không có tác dụng phụ quan trọng khác mà có liên quan với HBV biến thể này.Thực tế, biến thể YDMM ít tổn hại hơn HBV phổ biến, từ này chỉ HBV gốc là loạivi rút cấu trúc cơ bản mà không có sự biến chủng.Đặc tính đặc trưng cho thấy bề mặt YDMM là tái hiện diện lại HBV DNA trongkhi bệnh nhân vẫn đang sử dụng lamivudin. Chức năng gan có thể trở nên bấtthường trở lại. Dẫu vậy, bệnh nhân có HBV biến chủng vẫn có thể dùnglamivudin.Lý do để ngưng lamivudin là một đợt cấp nặng được đánh giá chức năng gan cóthể xảy ra sau khi ngưng thuốc. Đợt cấp xảy ra bởi vì YDMM biến thể được thaythế bởi sự tấn công mạnh hơn của HBV gốc.Có phải interferon hay lamivudin được thích lựa chọn để điều trị viêm gan Bmạn?Hiện nay không có một khuyến cáo rõ ràng nào cho việc lựa chọn interferon haylamivudin trong điều trị viêm gan B mạn. Trong khoảng thời gian điều trị bằnginterferon, 4-6 tháng đã được xác định là tốt, còn với lamivudin thì thời gian điềutrị kéo dài hơn và khoảng thời gian trị liệu ít chắc chắn hơn.Thực tế, đối với những bệnh nhân mà không mất HBeAg sau 12 tháng điều trịlamivudin, khuyến cáo hiện nay là tiếp tục điều trị vô hạn định.Tuy nhiên, trong thời gian kéo dài bằng điều trị lamivudin thì không tránh khỏitình trạng biến thể của vi rút kháng lại lamivudin. Mặt khác, interferon đ ược dùngdưới dạng tiêm và có nhiều tác dụng phụ thì lamivudin được dùng bằng đườnguống và dung nạp tốt.Hơn nữa, không giống như interferon, lamivudin có thể dùng điều trị ở nhữngbệnh nhân xơ gan mất bù. Thật vậy, thường lamivudin có thể cải thiện các triệuchứng ở những bệnh nhân này.Ảnh hưởng của rượu đến HBV ?Những người uống rượu mà đã bị nhiễm HBV thì có nguy cơ cao bị xơ gan ( gansẹo hóa nặng nề ) và ung thư gan nguyên phát hơn những người không uống rượuhay chỉ nhiễm HBV mạn. Hơn thế nữa, các nghiên cứu ở những bệnh nhân bịviêm gan C mạn ( không hoàn toàn giống nhau ) cho thấy rằng người uống rượuthậm chí khi đã tiết chế phối hợp với sự xơ hóa thì diễn tiến đến xơ gan nhanh hơnngười không uống rượu bị HCV.Thật không may mắn là hình thức so sánh các ảnh hưởng của việc uống lượngrượu vừa phải trong diễn tiến của viêm gan B mạn thì chưa có giá trị. Dẫu vậy,bệnh nhân bị viêm gan B mạn nên hạn chế , tương tự như viêm gan C, ngừng tiêuthụ chất cồn.Ảnh hưởng của thuốc ức chế miễn dịch đến HBV ?Bệnh nhân bị nhiễm HBV mạn nên thận trọng khi dùng bất kỳ loại thuốc nào làmức chế hệ miễn dịch bởi vì thuốc này có thể làm giảm sự đáp ứng của hệ miễn dịchvới vi rút. Ví dụ thuốc ức chế miễn dịch prednisone là thuốc được sử dụng điều trịnhiều bệnh như hen phế quản, viêm ruột, viêm khớp và một vài loại bệnh ở da;Methotrexate điều trị một vài bệnh da, viêm khớp, ung thư hay Cyclophosphamidedùng điều trị một vài bệnh ung thư. Ức chế miễn dịch có thể làm tổn thương gannặng nề thậm chí suy gan ở những bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính. Khi sử dụngthuốc ức chế miễn dịch thì HBV có thể sinh sản một cách tự do. Sau khi hết sửdụng thuốc ức chế miễn dịch, hệ miễn dịch gia tăng đáp ứng lại vi rút ở mức caolàm tổn thương tế bào gan trầm trọng.Viêm gan delta là gì ?Vi rút viêm gan delta ( HDV ) là một RNA vi rút, tức là chất liệu di truyền đượctạo nên từ ribonucleic acid. Đó là một loại vi rút nhỏ bị nhiễm sau khi bệnh nhânđã bị nhiễm HBV rồi. HDV không thể tự xâm nhập vào cơ thể một mình vì nó cầnHBV phát triển thì mới có thể chuyển đổi nó vào tế bào gan. Đường lây nhiễmHDV là tiếp xúc với máu có HDV, đặc biệt là dùng thuốc tiêm mạch, quan hệ tìnhdục, tương tự như HBV.Viêm gan cấp do HBV và HDV có thể xảy ra cùng lúc, với hậu quả viêm gan cấpnặng hơn nhiều. Tuy nhiên, hầu hết ở những bệnh nhân này sau đó sẽ ức chế cảhai loại vi rút HBV và HDV. Những người bị viêm gan B mạn cũng có thể bịnhiễm viêm gan D cấp. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân này sẽ phát triển thànhviêm gan D mạn tính trước viêm gan B mạn. Hơn nữa, người đã bị nhiễm trùngHDV mạn hầu như luôn diễn tiến đến xơ gan nhanh chóng.Điều trị viêm gan mạn D đồng nhiễm với HBV mạn rất khó. Những bệnh nhânnhân này cần tối thiểu là 1 năm điều trị bằng interferon. Hầu hết bệnh nhân sẽ táiphát sau khi ngưng interferon. Hơn thế nữa, lamivudin ( 3TC) không hiệu quảtrong điều trị viêm gan D mạn tính.Đồng nhiễm trùng HCV với HBV là gì ?Khoảng 10% bệnh nhân nhiễm HBV mạn tính là có nhiễm luôn HCV. HVCthường lây truyền qua thuốc tiêm truyền hay quan hệ tình dục. Bởi vậy, đồngnhiễm HBV và HCV thường thấy ở những người dùng thuốc tiêm mạ ...

Tài liệu được xem nhiều: