Danh mục

Vô cảm trong hỗ trợ sinh sản

Số trang: 11      Loại file: pdf      Dung lượng: 164.26 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (11 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Năm 1978 ca thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) đầu tiên được thực hiện với việc chọc hút trứng bằng kỹ thuật nội soi. Ngày nay chọc hút trứng được ưu tiên lựa chọn thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm ngả âm đạo (transvaginal ultrasound-guided oocyte retrieval - TUGOR). Chọc hút trứng là khâu căng thẳng nhất trong cả chu trình TTTON đối với bệnh nhân vô sinh. Khi tiến hành chọc hút trứng, cần thực hiện biện pháp vô cảm nhằm đảm bảo sự thuận tiện của thủ thuật và sự an toàn cho bệnh nhân....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vô cảm trong hỗ trợ sinh sản Vô cảm trong hỗ trợ sinh sảnĐẠI CƯƠNGNăm 1978 ca thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) đầu tiên được thực hiện vớiviệc chọc hút trứng bằng kỹ thuật nội soi. Ngày nay chọc hút trứng được ưu tiênlựa chọn thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm ngả âm đạo (transvaginalultrasound-guided oocyte retrieval - TUGOR). Chọc hút trứng là khâu căng thẳngnhất trong cả chu trình TTTON đối với bệnh nhân vô sinh. Khi tiến hành chọc húttrứng, cần thực hiện biện pháp vô cảm nhằm đảm bảo sự thuận tiện của thủ thuậtvà sự an toàn cho bệnh nhân. Vô cảm là một khâu có vai trò quan trọng giúp kỹthuật chọc hút trứng được tiến hành một cách hiệu quả.Có nhiều phương pháp thực hiện vô cảm trong TTTON: vô cảm toàn thân, an thần(sedation) kết hợp hoặc không kết hợp với gây tê tại chỗ, hay gây tê vùng cũngđược áp dụng và nghiên cứu. Hiện nay không có một qui định chuẩn nào cho việcvô cảm trong TTTON. Thật vậy, một khảo sát tiến hành trên 60 trung tâm TTTONở Anh cho thấy 60% sử dụng giảm đau trong khi 28% gây mê toàn thân, 12%giảm đau kết hợp gây tê tại chỗ, còn lại 14% phối hợp các ph ương pháp trên hoặcchỉ gây tê vùng đơn độc.CÁC KỸ THUẬT VÔ CẢM TRONG TUGORKỹ thuật an thần có nhận thứcKỹ thuật an thần có nhận thức là kỹ thuật được chấp nhận trong TUGOR để gây t êvà gây mê, thuận tiện cho bệnh nhân. Thuốc tiện lợi dễ dùng, thanh thải nhanh, cótác dụng tức thời và thời gian tác dụng kéo dài.Ở Mỹ, 95% chu kỳ được sử dụng kỹ thuật an thần có nhận thức. Trong một nghiêncứu đã công bố, có tới 84% trung tâm tại Anh sử dụng kỹ thuật an thần này, báocáo rằng kỹ thuật an thần có nhận thức cho tỷ lệ có thai cao hơn gây mê toàn thân(28,2% so với 16,3%).Có hai yếu tố chính cần quan tâm cân nhắc khi chọn thuốc l à khả năng thẩm thấuvào dịch nang và độc tính của chúng. Fentanyl chỉ vào dịch nang với hàm lượngrất ít, Meperidine không ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi chuột. Midazolamkhông gây bất cứ ảnh hưởng bất lợi nào, thậm chí không định lượng thấy trongthành phần dịch nang.Propofol thì có những ưu điểm rõ rệt do khả năng phục hồi và đặc tính chống nôncủa nó. Nhưng tác động của propofol lên sự thụ tinh, tỷ lệ phân chia của phôi và tỷlệ có thai thì cần phải được nghiên cứu thêm. Những nghiên cứu trước đây có ghinhận propofol có những tác động bất lợi trên sự phân chia mà không ảnh hưởnglên quá trình thụ tinh, hơn nữa nồng độ propofol tăng lên trong dịch nang trongquá trình chọc hút. Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây đã báo cáo rằng mặc dùnồng độ của propofol tăng lên cùng với thời gian nhưng không có sự khác biệt nàotrong tỷ lệ trứng trưởng thành và chưa trưởng thành. Hơn nữa, không thấy sự khácbiệt nào trong tỷ lệ thụ tinh, phân chia cũng như số tế bào phôi khi sử dụngpropofol. Khi so sánh với gây tê cạnh cổ tử cung không thấy sự khác biệt trong tỷlệ thụ tinh, phân chia của phôi và tỷ lệ làm tổ.Kỹ thuật gây mê toàn thânGây mê toàn thân có thể thực hiện theo đường tĩnh mạch (sử dụng chủ yếu) hoặcđường hô hấp (hít xông). Vì thế thành phần thuốc gây mê toàn thân có thể là cácchất dễ bay hơi hoặc các thuốc đường tĩnh mạch. N2O là một loại khí thường đượcsử dụng với 3 loại dung dịch dễ bay hơi khác (isoflurane, desflurane, sevoflurane),là loại thường được sử dụng nhất trong gây mê qua đường hô hấp.Đường tĩnh mạch có thể sử dụng rất nhiều chất và hợp chất của nó, có thể gồ m:thuốc mê, thuốc an thần giảm đau, thuốc cảm ứng gây mê chậm (inductionanesthesia).Thiopental và thiamylal có nồng độ trong dịch nang cao hơn nồng độ trong huyếtthanh cho tới 50 phút sau khi tiêm tĩnh mạch. Đa số các nghiên cứu lớn đều nhậnthấy rằng halogenated fluorocarbons và N2O đều có ảnh hưởng có hại, làm giảm tỷlệ phân chia và tăng tỷ lệ sẩy thai tự nhiên. Sự sụt giảm tỷ lệ thụ tinh của trứng thuđược sau chọc hút thời gian dài thấy phơi nhiễm tới 50% N2O và 1% isofluranehoặc enflurane của thuốc mê.Người ta đã tiến hành đánh giá số trứng trưởng thành thu được, tỷ lệ làm tổ và tỷlệ phân chia của phôi khi tiến hành gây mê bằng phương pháp toàn thân hay kỹthuật gây mê tĩnh mạch thấy không có sự khác biệt giữa trứng đầu tiên và trứngcuối cùng thu được, tuy nhiên ghi nhận xu hướng tỷ lệ thụ tinh giảm hơn ở nhữngtrường hợp có phơi nhiễm với thuốc mê lâu hơn. Vì thế, yếu tố quyết định thànhcông của gây mê trong hỗ trợ sinh sản là đảm bảo thời gian phơi nhiễm với thuốclà ngắn nhất mà chọc hút trứng vẫn đạt hiệu quả.Kỹ thuật gây tê vùngGây tê cạnh cổ tử cung bằng Lidocain 1% 50 – 200 mg kết hợp với an thần cũng làkỹ thuật được áp dụng trong chọc hút trứng. Liều 150 mg cũng được ghi nhận cótác dụng ngang bằng với liều 200 mg.Gây tê vùng khi so sánh với gây mê toàn thân cũng cho tỷ lệ phân chia và tỷ lệthai tương đương nhau.Châm cứuLà kỹ thuật rất lâu đời của Trung Quốc từ hơn 4000 năm qua, vừa mang tính sinhlý vừa mang tính tâm thần học. Châm cứu tác động v ...

Tài liệu được xem nhiều: