Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Số trang: 20
Loại file: pdf
Dung lượng: 879.31 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết nhằm khảo sát tác động của vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước và việc ngân hàng thương mại (NHTM) bán nợ xấu cho Công ty quản lý tài sản (VAMC) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Bài viết sử dụng dữ liệu nghiên cứu trong giai đoạn 2005- 2016, bằng phương pháp bình phương tối thiểu (pool OLS), phương pháp tác động cố định (fixed effect- FE) và phương pháp tác động ngẫu nhiên (random effect- RE). Kết quả nghiên cứu đã cho thấy: (1) Vốn chủ sở hữu có tác động tích cực trong việc gia tăng ổn định và giảm rủi ro ngân hàng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Thân Thị Thu Thuỷ Võ Thị Danh Thuyên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Kho bạc Nhà nước Long An Bài viết nhằm khảo sát tác động của vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước và việc ngân hàng thương mại (NHTM) bán nợ xấu cho Công ty quản lý tài sản (VAMC) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Bài viết sử dụng dữ liệu nghiên cứu trong giai đoạn 2005- 2016, bằng phương pháp bình phương tối thiểu (pool OLS), phương pháp tác động cố định (fixed effect- FE) và phương pháp tác động ngẫu nhiên (random effect- RE). Kết quả nghiên cứu đã cho thấy: (1) Vốn chủ sở hữu có tác động tích cực trong việc gia tăng ổn định và giảm rủi ro ngân hàng. Kết quả chỉ ra tồn tại mối quan hệ chữ U- mối quan hệ phi tuyến tính giữa vốn chủ sở hữu và rủi ro tại các NHTM Việt Nam; (2) Sở hữu nhà nước làm giảm ổn định và gia tăng rủi ro tại các NHTM Việt Nam; (3) Các NHTM bán nợ xấu cho VAMC có tác động tích cực đến ổn định và làm giảm rủi ro ngân hàng; (4) Tăng trưởng GDP làm giảm ổn định, gia tăng rủi ro ngân hàng; và lạm phát có tác động tích cực đến rủi ro ngân hàng. Từ khóa: Vốn chủ sở hữu, Sở hữu nhà nước, Bán nợ xấu, VAMC, Rủi ro ngân hàng Equity, government ownership, selling bad debts and risks of Vietnam’s Commercial Banks Abstract: This paper explores the effects of equity, government ownership and the selling bad debts of commercial banks to Vietnam Asset Management Company (VAMC) to the risks of Vietnam’s Commercial Banks in the period of 2005-2016. Employing pooled OLS, fixed effects and random effects estimations, this paper shows several concluding remarks: (1) equity capital positively affects bank stability and diminishes bank risks. More specifically, the relation between equity capital and bank risks is non-linear; (2) government ownership negatively affects bank stability and increases bank risks; (3) the selling bad debts of commercial banks to VAMC positively affects bank stability and diminishes bank risks; (4) GDP growth reduces bank stability and increases bank risks while inflation has a positive effects on bank risks. Keywords: Equity, Government ownership, Selling bad debts, VAMC, Bank risks Thuy Thi Thu Than, PhD. Email: thuynh@ueh.edu.vn University of Economics Ho Chi Minh City Thuyen Thi Danh Vo, M.Ec. Email: danhthuyenbk@yahoo.com State Treasury of Long An Ngày nhận: 22/08/2019 Ngày nhận bản sửa: 09/10/2019 Ngày duyệt đăng: 21/10/2019 © Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng ISSN 1859 - 011X 25 Số 215- Tháng 4. 2020 Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 1. Giới thiệu Agusman & ctg (2014) nghiên cứu sự can thiệp của Chính phủ vào ngân hàng Vai trò của quy định vốn trong các NHTM Indonesia giai đoạn 1995- 2003. Các công với sự ra đời của Basel I (1988), Basel II cụ được sử dụng để đo lường rủi ro như (2004) và Basel III (2010) đã và đang là độ lệch chuẩn của lợi nhuận, tỷ số tài sản chủ đề quan trọng. Để nâng cao chất lượng thanh khoản trên tổng tài sản, tỷ lệ dự vốn và dần chuẩn hoá vốn theo tiêu chuẩn phòng nợ trên tổng nợ. Còn sự can thiệp quốc tế, tháng 12/2016, 10 NHTM được của Chính phủ được đo lường thông qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) chương trình tái cấp vốn của Chính phủ, chọn thí điểm áp dụng quản lý rủi ro theo và hai biến giả thời gian CAR4 (bằng 1 tiêu chuẩn Basel II, đó là Vietcombank, trong giai đoạn 1998-2000, bằng 0 nếu BIDV, Vietinbank, VPBank, Sacombank, giai đoạn khác) và BNC4 (bằng 1 trong MB, ACB, Techcombank, Maritime Bank giai đoạn 2001-2003, bằng 0 nếu giai đoạn và VIB. Trước đó, sự ra đời của Nghị định khác) cũng được sử dụng, cùng với các 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ được biến kiểm soát khác như tổng tài sản và tỷ ban hành ngày 22/11/2006 qui định các giá hối đoái. Thông qua mô hình tác động NHTM phải có lộ trình gia tăng vốn điều cố định (fixed effect) và mô hình tác động lệ lên 3.000 tỷ đồng vào giai đoạn 2008- ngẫu nhiên (random effect), nghiên cứu 2010, đã tác động đến việc gia tăng vốn tại này đã đi đến kết luận rằng Chính phủ và các NHTM Việt Nam và việc gia tăng này các chủ sở hữu tăng cường bổ sung vốn tác động đến rủi ro tại các NHTM. góp, rủi ro thanh khoản sẽ giảm xuống đồng thời khi Chính phủ loại bỏ các khoản La Porta & ctg (2002) khẳng định, sở nợ xấu từ các ngân hàng có vấn đề làm rủi hữu nhà nước trong các ngân hàng là phổ ro tín dụng của ngân hàng cũng giảm. biến và khá lớn trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia thu nhập đầu người thấp, Ngoài ra, mối quan hệ chữ U được tìm hệ thống tài chính kém phát triển, sự can thấy trong nghiên cứu của Calem & Rob thiệp của chính phủ và quyền bảo vệ tài (1999). Nghiên cứu của hai tác giả này chỉ sản yếu. Thực tế tại Việt Nam, NHTM ra rằng tồn tại mối quan hệ phi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam Thân Thị Thu Thuỷ Võ Thị Danh Thuyên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh Kho bạc Nhà nước Long An Bài viết nhằm khảo sát tác động của vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước và việc ngân hàng thương mại (NHTM) bán nợ xấu cho Công ty quản lý tài sản (VAMC) đến rủi ro tại các NHTM Việt Nam. Bài viết sử dụng dữ liệu nghiên cứu trong giai đoạn 2005- 2016, bằng phương pháp bình phương tối thiểu (pool OLS), phương pháp tác động cố định (fixed effect- FE) và phương pháp tác động ngẫu nhiên (random effect- RE). Kết quả nghiên cứu đã cho thấy: (1) Vốn chủ sở hữu có tác động tích cực trong việc gia tăng ổn định và giảm rủi ro ngân hàng. Kết quả chỉ ra tồn tại mối quan hệ chữ U- mối quan hệ phi tuyến tính giữa vốn chủ sở hữu và rủi ro tại các NHTM Việt Nam; (2) Sở hữu nhà nước làm giảm ổn định và gia tăng rủi ro tại các NHTM Việt Nam; (3) Các NHTM bán nợ xấu cho VAMC có tác động tích cực đến ổn định và làm giảm rủi ro ngân hàng; (4) Tăng trưởng GDP làm giảm ổn định, gia tăng rủi ro ngân hàng; và lạm phát có tác động tích cực đến rủi ro ngân hàng. Từ khóa: Vốn chủ sở hữu, Sở hữu nhà nước, Bán nợ xấu, VAMC, Rủi ro ngân hàng Equity, government ownership, selling bad debts and risks of Vietnam’s Commercial Banks Abstract: This paper explores the effects of equity, government ownership and the selling bad debts of commercial banks to Vietnam Asset Management Company (VAMC) to the risks of Vietnam’s Commercial Banks in the period of 2005-2016. Employing pooled OLS, fixed effects and random effects estimations, this paper shows several concluding remarks: (1) equity capital positively affects bank stability and diminishes bank risks. More specifically, the relation between equity capital and bank risks is non-linear; (2) government ownership negatively affects bank stability and increases bank risks; (3) the selling bad debts of commercial banks to VAMC positively affects bank stability and diminishes bank risks; (4) GDP growth reduces bank stability and increases bank risks while inflation has a positive effects on bank risks. Keywords: Equity, Government ownership, Selling bad debts, VAMC, Bank risks Thuy Thi Thu Than, PhD. Email: thuynh@ueh.edu.vn University of Economics Ho Chi Minh City Thuyen Thi Danh Vo, M.Ec. Email: danhthuyenbk@yahoo.com State Treasury of Long An Ngày nhận: 22/08/2019 Ngày nhận bản sửa: 09/10/2019 Ngày duyệt đăng: 21/10/2019 © Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng ISSN 1859 - 011X 25 Số 215- Tháng 4. 2020 Vốn chủ sở hữu, sở hữu nhà nước, bán nợ xấu và rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam 1. Giới thiệu Agusman & ctg (2014) nghiên cứu sự can thiệp của Chính phủ vào ngân hàng Vai trò của quy định vốn trong các NHTM Indonesia giai đoạn 1995- 2003. Các công với sự ra đời của Basel I (1988), Basel II cụ được sử dụng để đo lường rủi ro như (2004) và Basel III (2010) đã và đang là độ lệch chuẩn của lợi nhuận, tỷ số tài sản chủ đề quan trọng. Để nâng cao chất lượng thanh khoản trên tổng tài sản, tỷ lệ dự vốn và dần chuẩn hoá vốn theo tiêu chuẩn phòng nợ trên tổng nợ. Còn sự can thiệp quốc tế, tháng 12/2016, 10 NHTM được của Chính phủ được đo lường thông qua Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) chương trình tái cấp vốn của Chính phủ, chọn thí điểm áp dụng quản lý rủi ro theo và hai biến giả thời gian CAR4 (bằng 1 tiêu chuẩn Basel II, đó là Vietcombank, trong giai đoạn 1998-2000, bằng 0 nếu BIDV, Vietinbank, VPBank, Sacombank, giai đoạn khác) và BNC4 (bằng 1 trong MB, ACB, Techcombank, Maritime Bank giai đoạn 2001-2003, bằng 0 nếu giai đoạn và VIB. Trước đó, sự ra đời của Nghị định khác) cũng được sử dụng, cùng với các 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ được biến kiểm soát khác như tổng tài sản và tỷ ban hành ngày 22/11/2006 qui định các giá hối đoái. Thông qua mô hình tác động NHTM phải có lộ trình gia tăng vốn điều cố định (fixed effect) và mô hình tác động lệ lên 3.000 tỷ đồng vào giai đoạn 2008- ngẫu nhiên (random effect), nghiên cứu 2010, đã tác động đến việc gia tăng vốn tại này đã đi đến kết luận rằng Chính phủ và các NHTM Việt Nam và việc gia tăng này các chủ sở hữu tăng cường bổ sung vốn tác động đến rủi ro tại các NHTM. góp, rủi ro thanh khoản sẽ giảm xuống đồng thời khi Chính phủ loại bỏ các khoản La Porta & ctg (2002) khẳng định, sở nợ xấu từ các ngân hàng có vấn đề làm rủi hữu nhà nước trong các ngân hàng là phổ ro tín dụng của ngân hàng cũng giảm. biến và khá lớn trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia thu nhập đầu người thấp, Ngoài ra, mối quan hệ chữ U được tìm hệ thống tài chính kém phát triển, sự can thấy trong nghiên cứu của Calem & Rob thiệp của chính phủ và quyền bảo vệ tài (1999). Nghiên cứu của hai tác giả này chỉ sản yếu. Thực tế tại Việt Nam, NHTM ra rằng tồn tại mối quan hệ phi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Vốn chủ sở hữu Sở hữu nhà nước Bán nợ xấu Rủi ro ngân hàng Ngân hàng thương mại Việt NamGợi ý tài liệu liên quan:
-
Luận án Tiến sĩ Tài chính - Ngân hàng: Phát triển tín dụng xanh tại ngân hàng thương mại Việt Nam
267 trang 384 1 0 -
72 trang 370 1 0
-
Mối quan hệ giữa dòng tiền và đầu tư của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam
3 trang 154 0 0 -
Hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam: Những vấn đề cần quan tâm hiện nay
6 trang 113 0 0 -
Quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam và những vấn đề đặt ra
5 trang 110 0 0 -
34 trang 101 0 0
-
ĐIỂM DANH RỦI RO TỪ SỞ HỮU CHÉO
6 trang 98 0 0 -
15 trang 92 0 0
-
59 trang 57 2 0
-
Khóa luận tốt nghiệp: Tăng cường huy động vốn tại Công ty Cổ phần Xây dựng Đất Việt
83 trang 53 0 0