Danh mục

Xây dựng CNXH đặc sắc ở Trung Quốc và bài học thực tiễn trong phát triển - 1

Số trang: 20      Loại file: pdf      Dung lượng: 167.49 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 20,000 VND Tải xuống file đầy đủ (20 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lời mở đầu Trước khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đã trải qua hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi thành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đưa đất nước ngày càng phát triển. Những cuộc cải cách...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng CNXH đặc sắc ở Trung Quốc và bài học thực tiễn trong phát triển - 1 Lời mở đầu Trư ớc khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc đ ã trải qua h àng nghìn năm dưới chế độ phong kiến và thực dân. Vốn là quốc gia có diện tích lớn, đông dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng dưới sự thống trị của phong kiến và thực dân làm cho nền kinh tế Trung Quốc lâm vào khủng hoảng, n ghèo nàn, lạc hậu. Sau khi th ành lập Trung Quốc đã lựa chọn con đường xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, đ ưa đất nước ngày càng phát triển. Những cuộc cải cách của Trung Quốc trong quá trình xây d ựng Chủ Nghĩa Xã Hội được ghi nhận như những cố gắng lớn lao nhằm tìm ra lối thoát cho một quốc gia Xã hội chủ nghĩa trì trệ trở th ành năng động, phát triển. Nó còn đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các nước phát triển đi lên hiện đ ại. Việt Nam là nước láng giềng với Trung Quốc, cũng phải trải qua nhiều n ăm dưới ách thống trị của phong kiến và chủ nghĩa đ ế quốc thực dân cùng với các cuộc chiến tranh liên miên đã làm cho đ ất n ước bị tàn phá nặng nề. Ngay sau khi thành lập nước chúng ta đã kiên quyết xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội, cũng thực hiện nhiều cải cách trong kinh tế, nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn của Việt Nam đã từ lâu quan tâm đ ến việc theo dõi cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc, lấy đó làm kinh nghiệm cho Việt Nam. Có ngư ời cho rằng công cu ộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam rất giống với cải cách kinh tế ở Trung Quốc, thậm chí cho rằng là “bản sao” của cuộc cải cách ấy. Tuy nhiên nếu xem xét kĩ th ì thấy rằng bên cạnh nhiều điểm tương đồng, cải cách kinh tế và mở cửa ở Trung Quốc với đổi mới kinh tế ở Việt Nam còn có nhiều đ iểm rất khác nhau. Tìm h iểu sự tương đồng và khác biệt này sẽ giúp cho ta thấy được những gì có thể tham kh ảo, những gì không thể hoặc không nên tham khảo từ cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc vào Việt Nam để có những đường lối chính sách phù hợp, thúc đ ẩy nhanh sự phát triển kinh tế nói riêng và của toàn đ ất nước nói chung. Nội dung I. Hoàn cảnh tiến hành đổi mới và cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam. Đối với công cuộc cải cách, đổi mới thì hoàn cảnh có vai trò hết sức quan trọng. Tuy đ ó không phải là điều kiện quyết đ ịnh đối với th ành công của cuộc cải cách, đổi mới đó nhưng nó lại góp phần vào sự thành công và thắng lợi. Và thực tế lịch sử ở Việt Nam và Trung Quốc đã chứng minh điều đó . Qua nghiên cứu chúng ta th ấy giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng và khác biệt về hoàn cảnh khi tiến hành cải cách, đổi mới. 1 . Về điểm tương đồng: Thứ nhất cả Việt Nam và Trung Quốc đ ều tiến hành cải cách, đổi mới trong đ iều kiện điểm xuất phát thấp, nền kinh tế lạc h ậu, và đều là những nước nông nghiệp với trình độ kĩ thuật lạc hậu, còn phụ thuộc vào “nền văn m inh đòn gánh”, đ ời sống của nhân dân thuộc loại thấp, những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như ăn, ở… vẫn chư a được giải quyết đ ầy đ ủ; cơ sở công nghiệp yếu mỏng, mất cân đối, công nghiệp lạc hậu gây khó khăn cho việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nơi sản sinh và nuôi dưỡng yếu tố bất lợi cho việc h ình thành và phát triển kinh tế thị trường. Trong khi đó nông nghiệp được coi là nghành chủ yếu nhưng cũng không tránh khỏi tình trạng lạc hâu, trì trệ, công cụ canh tác còn thô sơ, lạc hậu, n ăng suất thấp kém, sản lượng ít không đủ đ áp ứng nhu cầu trong nước. Mặt khác cơ chế kinh tế khi chưa đổi mới kìm hãm nền kinh tế, nhiệt tình lao động, năng lực sáng tạo và nguồn lực tài nguyên chưa được khai thác, huy động đầy đủ, thậm chí còn b ị xói mòn. Cơ ch ế kinh tế vận động thiếu năng lực, kém hiệu quả mất cân đối, nguy cơ bất ổn đ ịnh tiềm tàng trong đời sống. Kinh tế xã hội tích nén lại, tình trạng thiếu hụt kinh niên đ ang gia tăng nhanh trong đời sống xã hội… Th ứ hai cả hai n ước có cùng chung ý thức hệ mong muốn thực hiện, xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kinh tế nghèo nàn lạc hậu, muốn bỏ qua chế độ Tư b ản chủ nghĩa, quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian dài cả hai nước đ ều theo đuổi mô h ình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà có nguồn gốc là mô hình kinh tế kế hoạch hoá Xô Viết, mô h ình đó đã lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng b iểu hiện ở năng su ất sút kém ở mọi nghành, kinh tế lạc hậu về khoa học, kĩ thuật, đ ời sống nhân dân thiếu thốn, nhưng vẫn luôn hi vọng, tin tưởng vào sự thắng lợi của Chủ nghĩa xã hội. Cả hai nước đều cùng ch ịu tác động của văn hoá, lịch sử truyền thống tương tự nhau. Di sản nặng nề của tư tưởng phong kiến, quan liêu vẫn phát huy và ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, đó chính là nguyên nhân kìm hãm hai nước trong tình trạng trì trệ, kém phát triển lâu dài. Th ứ ba tuy hai nước bắt đ ầu cải cách và đổi mới không cùng thời gian nhưng bối cảnh quốc tế suốt thời kì đó không có sự thay đ ổi lớn và nh ững yếu tố tác động đến cuộc cải cách n ày vẫn tồn tại. Đáng kể nhất là việc Liên Xô và các nước Đông Âu đang trong qu á trình từ bỏ mô hình Chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết và chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đặc biệt lúc này kinh tế Nhật Bản và n ền kinh tế công nghiệp mới NIEs trong khu vực đ ã đ ạt được những thành tựu nổi bật và kinh nghiệm quý báu. Điều đó thúc đ ẩy Việt Nam và Trung Quốc phải đổi mới đ ể theo kịp các nước. Đây cũng là lúc th ế giới đ ang đi đến đòi hỏi sự hợp tác phân công lao động của tất cả các nước, xu hướng hợp tác hoá, quốc tế hoá ngày càng cao bất kể sự khác nhau về chính trị, văn hoá. Đồng thời nguy cơ các thế lực Tư b ản chủ nghĩa và phản động đang tìm m ọi cách phá hoại cách mạng, thực hiện âm mưu diến biến ho à bình để thay đ ổi, xoá bỏ chế độ Chủ nghĩa xã hội. Th ứ tư là sự yếu kém về năng lực lãnh đ ạo, tổ chức và sự trì trệ trong phát triển kinh tế xã hội đã làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đ ạo của Đảng cộng sản, vào nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Vì thế cần phải sáng tạo trong đường lối kinh tế và công tác lãnh đạo phải ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: