Xây dựng nông thôn mới khu vực ven đô vùng Đông Nam Bộ: Thực trạng, định hướng và giải pháp
Số trang: 13
Loại file: pdf
Dung lượng: 947.67 KB
Lượt xem: 24
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết phân tích thực trạng xây dựng nông thôn mới, định hướng và giải pháp xây dựng nông thôn mới ở khu vực ven đô của vùng Đông Nam Bộ nhằm cung cấp thông tin cho việc xây dựng nông thôn mới trong tương lai.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng nông thôn mới khu vực ven đô vùng Đông Nam Bộ: Thực trạng, định hướng và giải pháp XÂY DỰNG NTM KHU VỰC VEN ĐÔ VÙNG ĐNB: THỰC TRẠNG, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TS. Nguyễn Bạch Đằng; ThS. Trần Đức Luân37 I. Đặt vấn đề Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) đã triển khai thực hiện chính thức trên phạm vi cả nước từ năm 2010. Đây là một chương trình tổng thể, bao gồm quy hoạch, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tổ chức phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, an sinh xã hội, phát triển y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường và nhiều hoạt động khác. Gần 10 năm qua, chương trình này cơ bản làm thay đổi diện mạo nông thôn, mỗi vùng sinh thái có những đặc thù riêng nên thực trạng xây dựng NTM có sự khác biệt. Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng kinh tế trọng điểm ở phía Nam, có thế mạnh phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tốc độ đô thị hóa nhanh của vùng tạo sức ảnh hưởng đến việc thực hiện và xây dựng NTM, trong đó có khu vực ven đô. Có nhiều khái niệm và lý luận khác nhau về khu vực ven đô. Khu vực ven đô này thường không ổn định như các khu vực thành thị hoặc thuần nông thôn do chịu ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa (Mc Granaham D và cộng sự, 2004). Theo nghiên cứu của Nguyễn Duy Thắng (2009), khu vực ven đô có thể được hiểu là nơi cận kề thành phố, là nơi vừa có các hoạt động nông thôn vừa có các hoạt động đô thị, nghĩa là không hoàn toàn là đô thị cũng không thuần túy là nông thôn. Khu vực này chịu tác động bởi đô thị hóa, biến đổi không gian do mở rộng các khu đô thị mới ra đồng ruộng, đồng thời cũng ôm gọn trong lòng đô thị nhiều làng xã nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống. Như vậy, vùng ven đô là một khái niệm mang tính đa dạng, mềm dẻo, tuỳ thuộc vào cấp, loại đô thị và tốc độ phát triển của đô thị. Đối với thị trấn nó là vùng ven khu vực đô thị; đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh, nó là các xã thuộc vùng ven khu vực nội thị; còn đối với thành phố trực thuộc trung ương, đó là các xã, huyện vùng ven khu vực nội thị. Trong quy hoạch xây dựng, vùng ven đô có thể được coi là khu vực mở rộng đô thị trong giai đoạn quy hoạch. Xu thế phát triển công nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, việc phát triển mở rộng xây dựng ra vùng ven đô ngày càng lớn và với tốc độ khá nhanh. Nhiều dự án khu đô thị, khu dịch vụ và khu công nghiệp được hình thành tại khu vực ven đô này. Do đó, việc xây dựng nông thôn mới ở các xã thuộc vùng ven đô sẽ có những đặc trưng, khác với các xã thuộc vùng thuần nông. Bài tham luận này tập trung vào việc phân tích thực trạng xây dựng NTM, định hướng và giải pháp xây dựng NTM ở khu vực ven đô của vùng ĐNB nhằm cung cấp thông tin cho việc xây dựng NTM trong tương lai. 2. Tổng quan vùng Đông Nam Bộ và đặc trƣng của khu vực ven đô Vùng ĐNB có 6 đơn vị tỉnh thành, gồm tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Theo tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 31/12/2017, toàn vùng Đông Nam Bộ có 5 thành phố trực thuộc tỉnh, 19 quận, 8 thị xã, 40 huyện, 374 phường, 33 thị trấn và 465 xã. ĐNB nằm trên vùng bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến Đồng bằng sông Cửu 37 Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh 87 Long. Địa hình thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp đô thị và giao thông vận tải. Về hiện trạng sử dụng đất, theo số liệu tổng hợp từ niên giám thống kê 2018 của các tỉnh, tính đến ngày 31/12/2017, vùng ĐNB có diện tích tự nhiên 2.394,68 nghìn ha chiếm gần 7% tổng diện tích đất cả nước. Trong phạm vi của vùng ĐNB, đất dành cho sản xuất nông nghiệp là 1.361,01 nghìn ha (chiếm 56,8%), đất lâm nghiệp là 506,59 nghìn ha (chiếm 21,2%), đất chuyên dùng là 223,54 nghìn ha (chiếm 9,4%) và đất ở là 82,12 nghìn ha (chiếm 3,4%).Trong vùng ĐNB, tỉnh Bình Phước và Đồng Nai có diện tích đất tự nhiên, đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất chuyên dùng lớn nhất vùng. Ngược lại, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Mính là hai địa phương có diện tích đất tự nhiên và đất sản xuất nông nghiệp nhỏ nhất khu vực. Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích đất ở là 28,17 nghìn ha, cao nhất vùng ĐNB. ĐNB có khí hậu cận xích đạo, tổng lượng bức xạ cao và ổn định, nhiệt độ cao đều quanh năm với mức bình quân là 27,65oC, số giờ nắng là 2.311 giờ/năm, độ ẩm không khí là 80,31% và lượng mưa 2.312 mm/năm. Tính đến ngày 31/12/2017, dân số toàn vùng ĐNB gần 16,94 triệu người. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là nơi đông dân nhất với số lượng là 8,64 triệu người, chiếm 51% tổng dân số cả vùng ĐNB. Tiếp theo, tỉnh Đồng Nai có dân số là 3,03 triệu người (chiếm 18% tổng dân số cả vùng), tỉnh Bình Dương là 2,07 triệu người (chiếm 12% tổng dân số cả vùng), riêng tỉnh Bình Phước thì có số lượng dân số ít nhất, chỉ chiếm khoảng 6% dân số cả vùng. Thành phố Hồ Chí Minh có mật độ dân số 4.126 người/km2, cao hơn lần lượt từ 5 - 8 lần so với tỉnh Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu và Đồng Nai, cao hơn 15 lần so với Tây Ninh và cao hơn 29 lần so với tỉnh Bình Phước. Năm 2002, vùng ĐNB có thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành là 667 nghìn đồng/người/năm. Đến năm 2012, chỉ tiêu này tăng gần 5 lần và đến năm 2016 thì tăng gấp 7 lần. Nhìn chung, giai đoạn 2002- 2016, thu nhập bình quân đầu người của vùng ĐNB cao hơn 1,6 lần nếu so với cả nước. Vùng ĐNB có tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm, cụ thể năm 2002 là 8,2%, năm 2012 là 1,3% và đến hết năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 0,6% (so với cả nước thì thấp hơn 5 lần). Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) cả năm 2017 của vùng ĐNB là 1.987.330 tỷ đồng. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất, chiếm 54% tổng giá trị của cả vùng; thấp nhất là tỉnh Bình Phước và Tây Ninh, lần lượt chiếm tỷ lệ 2,6% và 3,2% tổng giá trị vùng ĐNB. Xét về cơ cấu giá trị tổng sản p ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng nông thôn mới khu vực ven đô vùng Đông Nam Bộ: Thực trạng, định hướng và giải pháp XÂY DỰNG NTM KHU VỰC VEN ĐÔ VÙNG ĐNB: THỰC TRẠNG, ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TS. Nguyễn Bạch Đằng; ThS. Trần Đức Luân37 I. Đặt vấn đề Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) đã triển khai thực hiện chính thức trên phạm vi cả nước từ năm 2010. Đây là một chương trình tổng thể, bao gồm quy hoạch, phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tổ chức phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, an sinh xã hội, phát triển y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường và nhiều hoạt động khác. Gần 10 năm qua, chương trình này cơ bản làm thay đổi diện mạo nông thôn, mỗi vùng sinh thái có những đặc thù riêng nên thực trạng xây dựng NTM có sự khác biệt. Đông Nam Bộ (ĐNB) là vùng kinh tế trọng điểm ở phía Nam, có thế mạnh phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Tốc độ đô thị hóa nhanh của vùng tạo sức ảnh hưởng đến việc thực hiện và xây dựng NTM, trong đó có khu vực ven đô. Có nhiều khái niệm và lý luận khác nhau về khu vực ven đô. Khu vực ven đô này thường không ổn định như các khu vực thành thị hoặc thuần nông thôn do chịu ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa (Mc Granaham D và cộng sự, 2004). Theo nghiên cứu của Nguyễn Duy Thắng (2009), khu vực ven đô có thể được hiểu là nơi cận kề thành phố, là nơi vừa có các hoạt động nông thôn vừa có các hoạt động đô thị, nghĩa là không hoàn toàn là đô thị cũng không thuần túy là nông thôn. Khu vực này chịu tác động bởi đô thị hóa, biến đổi không gian do mở rộng các khu đô thị mới ra đồng ruộng, đồng thời cũng ôm gọn trong lòng đô thị nhiều làng xã nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống. Như vậy, vùng ven đô là một khái niệm mang tính đa dạng, mềm dẻo, tuỳ thuộc vào cấp, loại đô thị và tốc độ phát triển của đô thị. Đối với thị trấn nó là vùng ven khu vực đô thị; đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh, nó là các xã thuộc vùng ven khu vực nội thị; còn đối với thành phố trực thuộc trung ương, đó là các xã, huyện vùng ven khu vực nội thị. Trong quy hoạch xây dựng, vùng ven đô có thể được coi là khu vực mở rộng đô thị trong giai đoạn quy hoạch. Xu thế phát triển công nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, việc phát triển mở rộng xây dựng ra vùng ven đô ngày càng lớn và với tốc độ khá nhanh. Nhiều dự án khu đô thị, khu dịch vụ và khu công nghiệp được hình thành tại khu vực ven đô này. Do đó, việc xây dựng nông thôn mới ở các xã thuộc vùng ven đô sẽ có những đặc trưng, khác với các xã thuộc vùng thuần nông. Bài tham luận này tập trung vào việc phân tích thực trạng xây dựng NTM, định hướng và giải pháp xây dựng NTM ở khu vực ven đô của vùng ĐNB nhằm cung cấp thông tin cho việc xây dựng NTM trong tương lai. 2. Tổng quan vùng Đông Nam Bộ và đặc trƣng của khu vực ven đô Vùng ĐNB có 6 đơn vị tỉnh thành, gồm tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh. Theo tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 31/12/2017, toàn vùng Đông Nam Bộ có 5 thành phố trực thuộc tỉnh, 19 quận, 8 thị xã, 40 huyện, 374 phường, 33 thị trấn và 465 xã. ĐNB nằm trên vùng bình nguyên rộng, chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến Đồng bằng sông Cửu 37 Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh 87 Long. Địa hình thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp đô thị và giao thông vận tải. Về hiện trạng sử dụng đất, theo số liệu tổng hợp từ niên giám thống kê 2018 của các tỉnh, tính đến ngày 31/12/2017, vùng ĐNB có diện tích tự nhiên 2.394,68 nghìn ha chiếm gần 7% tổng diện tích đất cả nước. Trong phạm vi của vùng ĐNB, đất dành cho sản xuất nông nghiệp là 1.361,01 nghìn ha (chiếm 56,8%), đất lâm nghiệp là 506,59 nghìn ha (chiếm 21,2%), đất chuyên dùng là 223,54 nghìn ha (chiếm 9,4%) và đất ở là 82,12 nghìn ha (chiếm 3,4%).Trong vùng ĐNB, tỉnh Bình Phước và Đồng Nai có diện tích đất tự nhiên, đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp và đất chuyên dùng lớn nhất vùng. Ngược lại, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Mính là hai địa phương có diện tích đất tự nhiên và đất sản xuất nông nghiệp nhỏ nhất khu vực. Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích đất ở là 28,17 nghìn ha, cao nhất vùng ĐNB. ĐNB có khí hậu cận xích đạo, tổng lượng bức xạ cao và ổn định, nhiệt độ cao đều quanh năm với mức bình quân là 27,65oC, số giờ nắng là 2.311 giờ/năm, độ ẩm không khí là 80,31% và lượng mưa 2.312 mm/năm. Tính đến ngày 31/12/2017, dân số toàn vùng ĐNB gần 16,94 triệu người. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là nơi đông dân nhất với số lượng là 8,64 triệu người, chiếm 51% tổng dân số cả vùng ĐNB. Tiếp theo, tỉnh Đồng Nai có dân số là 3,03 triệu người (chiếm 18% tổng dân số cả vùng), tỉnh Bình Dương là 2,07 triệu người (chiếm 12% tổng dân số cả vùng), riêng tỉnh Bình Phước thì có số lượng dân số ít nhất, chỉ chiếm khoảng 6% dân số cả vùng. Thành phố Hồ Chí Minh có mật độ dân số 4.126 người/km2, cao hơn lần lượt từ 5 - 8 lần so với tỉnh Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu và Đồng Nai, cao hơn 15 lần so với Tây Ninh và cao hơn 29 lần so với tỉnh Bình Phước. Năm 2002, vùng ĐNB có thu nhập bình quân đầu người theo giá hiện hành là 667 nghìn đồng/người/năm. Đến năm 2012, chỉ tiêu này tăng gần 5 lần và đến năm 2016 thì tăng gấp 7 lần. Nhìn chung, giai đoạn 2002- 2016, thu nhập bình quân đầu người của vùng ĐNB cao hơn 1,6 lần nếu so với cả nước. Vùng ĐNB có tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm, cụ thể năm 2002 là 8,2%, năm 2012 là 1,3% và đến hết năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo chỉ còn 0,6% (so với cả nước thì thấp hơn 5 lần). Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) cả năm 2017 của vùng ĐNB là 1.987.330 tỷ đồng. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất, chiếm 54% tổng giá trị của cả vùng; thấp nhất là tỉnh Bình Phước và Tây Ninh, lần lượt chiếm tỷ lệ 2,6% và 3,2% tổng giá trị vùng ĐNB. Xét về cơ cấu giá trị tổng sản p ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Xây dựng nông thôn mới Khu vực ven đô vùng Đông Nam Bộ Nông thôn mới Mục tiêu xây dựng nông thôn mới Kế hoạch xây dựng nông thôn mớiTài liệu liên quan:
-
35 trang 346 0 0
-
Một số giải pháp xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay
4 trang 242 0 0 -
Điểm sáng phát triển nông nghiệp đô thị ở Hải Phòng
2 trang 125 0 0 -
124 trang 113 0 0
-
11 trang 105 0 0
-
5 trang 89 0 0
-
13 trang 86 0 0
-
98 trang 67 0 0
-
Quyết định số 3194/QĐ-UBND 2013
42 trang 58 0 0 -
53 trang 57 0 0