Danh mục

Xây dựng thương hiệu giáo dục

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 158.93 KB      Lượt xem: 24      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Một sản phẩm giáo dục, ngoài giáo trình tốt là cốt lõi, giảng viên, sinh viên cũng là một sản phẩm. Yếu tố con người là công cụ quảng cáo hữu hiệu cho kinh doanh giáo dục.Văn hóa Á Đông luôn đặt nặng vấn đề học vấn, vì vậy thầy cô giáo rất được tôn trọng và là hình ảnh mô phạm, mẫu mực cho sinh viên học sinh.Nếu nhìn ở góc độ kinh doanh, với văn hóa hiếu học như thế, nhu cầu về giáo dục ở thị trường châu Á rất cao....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng thương hiệu giáo dụcXây dựng thương hiệu giáo dục Một sản phẩm giáo dục, ngoài giáo trình tốt là cốt lõi, giảng viên, sinh viên cũng là một sản phẩm. Yếu tố con người là công cụ quảng cáo hữu hiệu cho kinh doanh giáo dục.Văn hóa Á Đông luôn đặt nặng vấn đề học vấn, vì vậy thầy cô giáo rất được tôntrọng và là hình ảnh mô phạm, mẫu mực cho sinh viên học sinh.Nếu nhìn ở góc độ kinh doanh, với văn hóa hiếu học như thế, nhu cầu về giáo dụcở thị trường châu Á rất cao. Và thực sự có rất nhiều trường đại học, cao đẳng,trung học, mầm non ở các nước Đông Nam Á. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Thếnhưng, tại sao phần lớn các trường danh tiếng lại xuất phát từ Mỹ, Nhật, Anh,Canada, Úc và châu Âu? Có thực sự họ nổi tiếng dựa vào chất lượng, hay họ phảidùng đến công cụ marketing để đánh bóng thương hiệu giáo dục? Nếu nói về kiếnthức marketing, các trường ở Việt Nam không hề thua kém, nhưng hình ảnh “môphạm” là một trong những rào cản khiến những người làm giáo dục khó đẩy mạnhtiếp thị thương hiệu giáo dục. Đồng thời đây là một ngành cần phải được hỗ trợmarketing từ phía chính phủ.Marketing hỗn hợpĐã có rất nhiều tổ chức, công ty, cá nhân bỏ ra hàng triệu USD để xây dựng mộttrường đào tạo hoặc liên kết đưa các trường nước ngoài về Việt Nam. Khá nhiềutrường ở Việt Nam đã thành công về mặt doanh số, nhưng chưa thể kết luận họ làmkinh doanh tốt. Vì nếu nói về thương hiệu giáo dục, có bao nhiêu tên trường ViệtNam nằm trong danh sách những trường tốt của “khách hàng”?Để xây dựng thương hiệu thành công, các tổ chức giáo dục cũng cần áp dụng môhình marketing hỗn hợp, hay còn gọi là mô hình 4P.Vậy mô hình 4P là như thế nào? Thứ nhất là Products (Sản phẩm). Nhiều nhà đầutư giáo dục cho rằng, chỉ cần chương trình (sản phẩm) tốt là đủ. Vậy tại sao cónhiều chương trình tốt từ nước ngoài mang về Việt Nam vẫn thất bại? Một sảnphẩm giáo dục, ngoài giáo trình tốt là cốt lõi, giảng viên cũng là một sản phẩm.Các dịch vụ hỗ trợ học sinh, sinh viên cũng là một sản phẩm, nhưng sản phẩmquan trọng nhất là người học.Thứ 2 là Promotion (Quảng cáo). Có rất nhiều chương trình nước ngoài, hoặctrường quốc tế quảng cáo rầm rộ, giảm 50% học phí, phát tờ rơi đầy một gócđường vẫn không thu hút được học sinh, sinh viên. Hãy dùng yếu tố con người làcông cụ quảng cáo hữu hiệu cho kinh doanh giáo dục. Như đã nói ở trên, người họclà một sản phẩm quan trọng. Hãy giới thiệu sản phẩm quan trọng này với kháchhàng, với thị trường qua nhiều kênh. Ví dụ, qua chương trình giao lưu, thi thố tàinăng; chương trình vừa học vừa làm đưa sinh viên đi khắp nơi làm việc trong mọilĩnh vực. Và hãy dùng một công cụ mà người Việt đã biết sử dụng từ lâu đời. Đó làtruyền miệng. Hãy đưa những giảng viên giỏi đi nói chuyện ở các tổ chức, hiệphội...Thứ 3 là Physical Evidence (Sự hữu hình). Giáo dục là một sản phẩm vô hình. Vậylàm sao có thể hữu hình hóa để khách hàng hiểu, chấp nhận và quyết định mua?Tùy vào đối tượng khách hàng mà trả lời câu hỏi này. Nếu đó là các bậc cha mẹtìm kiếm một trường mầm non cho con thì họ quan tâm đến những gì? Hãy thiết kếchương trình phù hợp với mối quan tâm đó. .ếu đối tượng là người đi làm muốnhọc thạc sĩ quản trị kinh doanh (MBA), thì cũng nên tìm hiểu họ quan tâm đếnnhững gì?Cuối cùng là People (Con người). Phần lớn các hiệu trưởng, trưởng khoa và giáosư đại học ở các nước phát triển đều có ý thức thương mại hóa các nghiên cứu vàphát minh của mình. Họ quan hệ cực kỳ tốt với rất nhiều công ty trong lĩnh vực họnghiên cứu. Vì đây là cầu nối để đưa những sản phẩm quan trọng là sinh viên đếnvới thị trường.Doanh thu và mô hình kinh doanh trong giáo dụcLợi thế của mô hình kinh doanh giáo dục là vừa có thể là tổ chức phi lợi nhuận vừacó thể là tổ chức doanh lợi. Ngoài làm giáo dục có thể kêu gọi tài trợ, hỗ trợ từ cácdoanh nghiệp nhưng vẫn có thể thu phí như bất kỳ mô hình kinh doanh nào. Đạihọc Harvard xin tiền tài trợ hằng năm cả trăm triệu USD, nhưng học phí củaTrường không rẻ chút nào.Nếu so sánh với mô hình kinh doanh khác, kinh doanh giáo dục cũng có thể đượcbán sỉ cho các doanh nghiệp, hoặc có thể bán lẻ cho cá nhân. Ví dụ, nếu kinhdoanh trường dạy tiếng Anh, bạn có thể bán những gói sản phẩm cho doanhnghiệp, hoặc có thể mở lớp dạy mọi đối tượng. Nhưng kinh doanh ngoại ngữ đượcxem là kinh doanh đại trà. Nếu kinh doanh giáo dục ở bậc sau đại học (thạc sĩ, tiếnsĩ) bạn có thể bán lẻ cho cá nhân đang đi làm, sinh viên muốn học cao hơn. Môhình này được xem là sản phẩm cao cấp.Mặc dù nhìn giáo dục dưới con mắt kinh doanh, nhưng đừng quên văn hóa củaquốc gia. Dung hòa được 2 yếu tố này, việc kinh doanh giáo dục sẽ trường tồn. ...

Tài liệu được xem nhiều: