Xây dựng xã hội học tập tại Việt Nam từ góc nhìn kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 259.22 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đã đạt được những tiến bộ vượt bậc trong việc xây dựng xã hội học tập. Cách tiếp cận và bài học kinh nghiệm từ các quốc gia này có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam.Việc nghiên cứu, tìm hiểu thành tựu về học tập suốt đời của ba quốc gia này có thể giúp các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách của Việt Nam có điều kiện so sánh với thực tiễn nước mình để rút ra những bài học phù hợp.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng xã hội học tập tại Việt Nam từ góc nhìn kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC NƯỚC NGOÀIXây dựng xã hội học tập tại Việt Nam từ góc nhìnkinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và SingaporePhạm Tuyết NhungViện Khoa học Giáo dục Việt Nam TÓM TẮT: Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đã đạt được những tiến bộ vượt101 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, bậc trong việc xây dựng xã hội học tập. Cách tiếp cận và bài học kinh nghiệmHà Nội, Việt Nam từ các quốc gia này có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam.Việc nghiên cứu, tìmEmail: nhungonline2000@yahoo.com hiểu thành tựu về học tập suốt đời của ba quốc gia này có thể giúp các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách của Việt Nam có điều kiện so sánh với thực tiễn nước mình để rút ra những bài học phù hợp. TỪ KHÓA: Học tập suốt đời; giáo dục suốt đời; xã hội học tập. Nhận bài 10/10/2019 Nhận kết quả phản biện và chỉnh sửa 17/11/2019 Duyệt đăng 25/12/2019. 1. Đặt vấn đề trúc quan liêu chặt chẽ, phân cấp thứ bậc xã hội, mong muốn Khái niệm ”xã hội học tập” (XHHT) xuất hiện từ cuối thành tựu GD cao, nhấn mạnh các giá trị truyền thống nhưnhững năm 1960. Năm 1972, khái niệm này đã được Ủy sự siêng năng, tiết kiệm, hợp tác, tôn trọng người lớn tuổi,ban Quốc tế về Phát triển Giáo dục (GD) đề cập trong báo lòng trung thành với tổ chức, sự khiêm tốn… (Hur và Hur,cáo trình UNESCO với tựa đề Học để trở thành thế giới 1999). Cả ba quốc gia đều hiểu rằng, lực lượng lao động cóGD hôm nay và ngày mai. Báo cáo này lập luận rằng, GD trình độ rất cần thiết giúp kinh tế tăng trưởng và xã hội phátkhông còn là đặc quyền của giới thượng lưu và cũng không triển. Họ đều nhận thấy sự cần thiết phải đầu tư vào nghiênchỉ áp dụng cho một nhóm tuổi. Đúng hơn, GD cần hướng cứu, từ đó tạo sự cạnh tranh kinh tế và đổi mới xã hội. Từtới cộng đồng và toàn bộ cuộc đời từng con người. GD cần những năm 1960, các quốc gia này đã tìm cách giúp ngườiđược tái cấu trúc dựa trên hai cơ sở: Thứ nhất, XHHT cần dân tiếp cận nhiều hơn với GD sau trung học và đã đạt đượcsự chung tay của tất cả các cơ quan và tổ chức công và tư kết quả ấn tượng. Tuy nhiên, một số yếu tố sư phạm theo tưnhân, đóng vai trò nhà cung cấp GD; Thứ hai, mọi công dân tưởng Nho giáo như vai trò chủ đạo của giáo viên, học tậpcần tham gia học tập, tận dụng tối đa các cơ hội do XHHT theo kì thi và áp lực tuân theo chuẩn mực nhóm sẽ kìm hãmmang đến. người học phát triển sự sáng tạo và tinh thần đổi mới. Để Chúng ta đang sống trong thời đại Cách mạng công vượt qua các yếu tố bất lợi này, trong những năm gần đây,nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) với nhiều vấn đề và thách thức về các quốc gia này đã thúc đẩy cải cách GD, đặc biệt nhằmkinh tế, xã hội như nghèo đói hàng loạt, dịch chuyển nhân mục đích nâng cao sự khéo léo của người học.khẩu học, thất nghiệp, biến đổi khí hậu, đô thị hóa, di cư, Về phát triển kinh tế, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singaporekhủng hoảng tài chính, đe dọa đến hòa bình, an ninh và có nền kinh tế phát triển nhanh chóng, bền vững từ nhữngtoàn cầu hóa… Trước những thách thức này, nhiều quốc gia năm 1960 và tiêu biểu “điều kì diệu trong kinh tế Đông Á”.đang áp dụng các cách giải quyết đặc trưng bởi các thuật Cuối những năm 1980, nền kinh tế Nhật Bản, quốc gia Châungữ “XHHT” và “học tập suốt đời” (HTSĐ). Nhật Bản, Á đầu tiên bắt kịp nền kinh tế công nghiệp phương Tây. TuyHàn Quốc và Singapore là những nghiên cứu điển hình về nhiên, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản chậm lại trong nhữngXHHT. Trong khi đó, ở Việt Nam, các vấn đề về HTSĐ năm 1990 và suy giảm từ năm 2010. Những năm gần đây,còn chưa được đi sâu nghiên cứu nhiều. Chính vì vậy, việc các quốc gia này nỗ lực phát triển nền kinh tế tri thức, giữtìm hiểu kinh nghiệm xây dựng, phát triển XHHT/HTSĐ vững chính sách kết hợp GD và hoạch định nguồn nhân lựctại Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore là rất cần thiết. Đây với các chính sách kinh tế hướng tới tăng trưởng bền vững.chính là những bài học quý báu để vận dụng một cách sáng Nghiên cứu của OECD (Schle Rich, 2012) cho thấy, sinhtạo cho việc phát triển quan điểm HTSĐ/XHHT tại Việt viên ở các quốc gia ít nguồn lực tự nhiên như Singapore,Nam. Hàn Quốc và Nhật Bản đạt điểm cao trong các bài kiểm tra ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xây dựng xã hội học tập tại Việt Nam từ góc nhìn kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC NƯỚC NGOÀIXây dựng xã hội học tập tại Việt Nam từ góc nhìnkinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và SingaporePhạm Tuyết NhungViện Khoa học Giáo dục Việt Nam TÓM TẮT: Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đã đạt được những tiến bộ vượt101 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, bậc trong việc xây dựng xã hội học tập. Cách tiếp cận và bài học kinh nghiệmHà Nội, Việt Nam từ các quốc gia này có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam.Việc nghiên cứu, tìmEmail: nhungonline2000@yahoo.com hiểu thành tựu về học tập suốt đời của ba quốc gia này có thể giúp các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách của Việt Nam có điều kiện so sánh với thực tiễn nước mình để rút ra những bài học phù hợp. TỪ KHÓA: Học tập suốt đời; giáo dục suốt đời; xã hội học tập. Nhận bài 10/10/2019 Nhận kết quả phản biện và chỉnh sửa 17/11/2019 Duyệt đăng 25/12/2019. 1. Đặt vấn đề trúc quan liêu chặt chẽ, phân cấp thứ bậc xã hội, mong muốn Khái niệm ”xã hội học tập” (XHHT) xuất hiện từ cuối thành tựu GD cao, nhấn mạnh các giá trị truyền thống nhưnhững năm 1960. Năm 1972, khái niệm này đã được Ủy sự siêng năng, tiết kiệm, hợp tác, tôn trọng người lớn tuổi,ban Quốc tế về Phát triển Giáo dục (GD) đề cập trong báo lòng trung thành với tổ chức, sự khiêm tốn… (Hur và Hur,cáo trình UNESCO với tựa đề Học để trở thành thế giới 1999). Cả ba quốc gia đều hiểu rằng, lực lượng lao động cóGD hôm nay và ngày mai. Báo cáo này lập luận rằng, GD trình độ rất cần thiết giúp kinh tế tăng trưởng và xã hội phátkhông còn là đặc quyền của giới thượng lưu và cũng không triển. Họ đều nhận thấy sự cần thiết phải đầu tư vào nghiênchỉ áp dụng cho một nhóm tuổi. Đúng hơn, GD cần hướng cứu, từ đó tạo sự cạnh tranh kinh tế và đổi mới xã hội. Từtới cộng đồng và toàn bộ cuộc đời từng con người. GD cần những năm 1960, các quốc gia này đã tìm cách giúp ngườiđược tái cấu trúc dựa trên hai cơ sở: Thứ nhất, XHHT cần dân tiếp cận nhiều hơn với GD sau trung học và đã đạt đượcsự chung tay của tất cả các cơ quan và tổ chức công và tư kết quả ấn tượng. Tuy nhiên, một số yếu tố sư phạm theo tưnhân, đóng vai trò nhà cung cấp GD; Thứ hai, mọi công dân tưởng Nho giáo như vai trò chủ đạo của giáo viên, học tậpcần tham gia học tập, tận dụng tối đa các cơ hội do XHHT theo kì thi và áp lực tuân theo chuẩn mực nhóm sẽ kìm hãmmang đến. người học phát triển sự sáng tạo và tinh thần đổi mới. Để Chúng ta đang sống trong thời đại Cách mạng công vượt qua các yếu tố bất lợi này, trong những năm gần đây,nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) với nhiều vấn đề và thách thức về các quốc gia này đã thúc đẩy cải cách GD, đặc biệt nhằmkinh tế, xã hội như nghèo đói hàng loạt, dịch chuyển nhân mục đích nâng cao sự khéo léo của người học.khẩu học, thất nghiệp, biến đổi khí hậu, đô thị hóa, di cư, Về phát triển kinh tế, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singaporekhủng hoảng tài chính, đe dọa đến hòa bình, an ninh và có nền kinh tế phát triển nhanh chóng, bền vững từ nhữngtoàn cầu hóa… Trước những thách thức này, nhiều quốc gia năm 1960 và tiêu biểu “điều kì diệu trong kinh tế Đông Á”.đang áp dụng các cách giải quyết đặc trưng bởi các thuật Cuối những năm 1980, nền kinh tế Nhật Bản, quốc gia Châungữ “XHHT” và “học tập suốt đời” (HTSĐ). Nhật Bản, Á đầu tiên bắt kịp nền kinh tế công nghiệp phương Tây. TuyHàn Quốc và Singapore là những nghiên cứu điển hình về nhiên, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản chậm lại trong nhữngXHHT. Trong khi đó, ở Việt Nam, các vấn đề về HTSĐ năm 1990 và suy giảm từ năm 2010. Những năm gần đây,còn chưa được đi sâu nghiên cứu nhiều. Chính vì vậy, việc các quốc gia này nỗ lực phát triển nền kinh tế tri thức, giữtìm hiểu kinh nghiệm xây dựng, phát triển XHHT/HTSĐ vững chính sách kết hợp GD và hoạch định nguồn nhân lựctại Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore là rất cần thiết. Đây với các chính sách kinh tế hướng tới tăng trưởng bền vững.chính là những bài học quý báu để vận dụng một cách sáng Nghiên cứu của OECD (Schle Rich, 2012) cho thấy, sinhtạo cho việc phát triển quan điểm HTSĐ/XHHT tại Việt viên ở các quốc gia ít nguồn lực tự nhiên như Singapore,Nam. Hàn Quốc và Nhật Bản đạt điểm cao trong các bài kiểm tra ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Nghiên cứu giáo dục Quản lý giáo dục Học tập suốt đời Giáo dục suốt đời Xã hội học tậpGợi ý tài liệu liên quan:
-
174 trang 276 0 0
-
Mỹ thuật ứng dụng và công tác đào tạo tiếp cận từ học liệu mở
4 trang 207 0 0 -
Tiểu luận: Tìm hiểu thực trạng giáo dục Đại Học hiện nay ở nước ta
27 trang 203 0 0 -
6 trang 203 0 0
-
26 trang 199 0 0
-
98 trang 196 0 0
-
119 trang 193 0 0
-
122 trang 192 0 0
-
162 trang 176 0 0
-
132 trang 164 0 0