Danh mục

Xử lý phân tán và tái sử dụng nước thải đô thị

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 119.85 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Giải quyết tốt vấn đề thoát nước và xử lý nước thải (XLNT) trước khi xả ra nguồn là một yêu cầu cấp bách, nhằm bảo vệ môi trường, đảm bảo sức khoẻ nhân dân và tạo điều kiện cho đô thị phát triển ổn định, lâu bền. Trong đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước đô thị, chi phí xây dựng các tuyến cống thoát nước và công trình trên đó thường chiếm tỷ lệ lớn từ 60-70%. Những điều kiện tự nhiên như sông hồ nhiều, nhiệt độ cao, cường độ bức xạ mặt trời lớn......
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xử lý phân tán và tái sử dụng nước thải đô thị Xử lý phân tán và tái sử dụng nước thảiđô thịGiải quyết tốt vấn đề thoát nước và xử lýnước thải (XLNT) trước khi xả ra nguồn là mộtyêu cầu cấp bách, nhằm bảo vệ môi trường,đảm bảo sức khoẻ nhân dân và tạo điều kiệncho đô thị phát triển ổn định, lâu bền.Trong đầu tư xây dựng hệ thống thoát nướcđô thị, chi phí xây dựng các tuyến cống thoátnước và công trình trên đó thường chiếm tỷ lệlớn từ 60-70%. Những điều kiện tự nhiên nhưsông hồ nhiều, nhiệt độ cao, cường độ bức xạmặt trời lớn... và là nước nông nghiệp, lại lànhững yếu tố thuận lợi nhất định cho việc xửlý và sử dụng nước thải đô thị ở nước ta. Vìvậy cần thiết phải nghiên cứu, lựa chọn côngnghệ thoát nước và XLNT phù hợp khi thiếtlập các dự án đầu tư cho hệ thống thoát nướcđô thị.Dạng thoát nước đô thị có thể là tập trunghoặc phân tán. Khi thoát nước tập trung, nướcthải từ các tuyến cống cấp 2 (tuyến cống lưuvực) đưa về tuyến cống chính (tuyến cống cấp1), sau đó bơm về trạm XLNT tập trung. Nhưvậy nước thải sẽ có khả năng tự làm sạch lớn,độ an toàn cao, ít bị ô nhiễm, dễ kiểm soát vàquản lý. Tuy nhiên, việc đầu tư thoát nước thảitập trung rất tốn kém.Trong các đô thị lớn do khó khăn và khôngkinh tế trong việc xây dựng các tuyến cốngthoát nước quá dài, khi địa hình bằng phẳngvà mực nước ngầm cao, người ta thường quyhoạch thoát nước thải thành hệ thống phântán theo các lưu vực sông, hồ. Thoát nướcphân tán là hình thức phù hợp hơn đối với đasố đô thị nước ta. Các trạm XLNT phân tánthường có quy mô nhỏ, công suất từ 2.000đến 10.000 m3/ngày. Xây dựng các trạmXLNT cho các đô thị nhỏ và cho các lưu vựcđộc lập của các đô thị lớn, hoặc các trạmXLNT bệnh viện, các công trình công cộng,dịch vụ... quy mô công suất từ 50 đến500m3/ngày sẽ tận dụng được các điều kiệntự nhiên cũng như khả năng tự làm sạch củasông, kênh, hồ để chuyển hoá chất bẩn. Mặtkhác việc xây dựng này cũng phù hợp với khảnăng đầu tư và sự phát triển của đô thị. Tổnggiá thành đầu tư cho hệ thống thoát nước thảiphân tán giảm xuống, do không phải xây dựngcác tuyến cống thoát nước thải tập trung. Cáccông trình của trạm XLNT phân tán thườngđược bố trí hợp khối, dễ vận hành và quản lý.Nhược điểm chính của hệ thống nước thảiphân tán là dễ làm mất cảnh quan do việc xâydựng trạm XLNT bên trong đô thị. Nếu khôngđảm bảo đúng các yêu cầu kỹ thuật, nước thảicó thể gây mùi hôi thối. Mặt khác nếu hàmlượng các nguyên tố dinh dưỡng như N và Ptrong nước thải sau khi xử lý còn cao, trongđiều kiện quang hợp tốt, các sông hồ đo thịtiếp nhận nước thải có thể bị phú dưỡng vàdẫn đến nhiễm bẩn thứ cấp. Trong các sônghồ tiếp nhận nước thải đô thị hàm lượng chấthữu cơ (tính theo BOD5) bổ sung do nhiễmbẩn thứ cấp thường dao động từ 1,4 đến 4,5mg/l. Các trạm XLNT phân tán có quy mô,mức độ và công nghệ xử lý khác nhau. Việckiểm soát, quản lý vận hành chúng rất phứctạp, tìm kiếm đất đai cho việc xây dựng trạmXLNT trong nội thành thường rất khó khăn. Tổchức thoát nước phân tán thường thích hợpcho các đô thị có hệ thống thoát nước chunghoặc hệ thống thoát nước nửa riêng, nằmtrong các vùng địa hình bằng phẳng nhiềukênh, hồ. Hệ thống thoát nước thải Hà Nộiđược chia thành 7 vùng theo phương án quyhoạch của Tổ chức hợp tác Quốc tế Nhật Bản(JICA) năm 1994, là hình thức tổ chức thoátnước phân tán.Trong trường hợp các đối tượng thoát nước(cụm dân cư, công trình công cộng, dịch vụ,nhà ở…) nằm ở vị trí riêng rẽ, độc lập hoặccách xa hệ thống thoát nước tập trung, mộttrong những hình thức thoát nước phân tán tổchức hệ thống thoát nước thải cục bộ kết hợpxử lý tại chỗ. Hệ thống thoát nước thải cục bộcó thể có đường cống hoặc không có đườngcống. Nước thải sau khi xử lý đảm bảo tiêuchuẩn vệ sinh môi trường, được cho thấm vàođất, thải trực tiếp vào sông hồ lân cận có thểsử dụng để tưới cây, nuôi cá…Trong một sốtrường hợp trước khi xả vào các đường cốngthoát nước tập trung, các loại nước thải cóchứa vi khuẩn gây bệnh dịch hoặc chất bẩnđặc biệt phải được khử trùng hoặc khử độctrong các công trình xử lý cục bộ, đảm bảođiều kiện không ảnh hưởng xấu đến hoạtđộng của hệ thống thoát nước, sông hồ đô thịvà sức khoẻ của con người.Các công trình XLNT cục bộ thường có côngsuất từ vài trăm m3 đến dăm nghìn m3 trongmột ngày. Trường hợp thứ nhất thường là cáctrạm XLNT quy mô vừa (công suất từ 1.000đến 5.000 m3/ngày); các trường hợp thứ haivà thứ ba là các trạm quy mô nhỏ (công suấtdưới 1.000 m3/ngày). Tổ chức thoát nước khuvực Linh Đàm - Định Công - Pháp Vân phíaNam Hà Nội là một ví dụ về các hệ thống thoátnước thải cục bộ cho các trường hợp thứ hai.Một số đô thị (TP. Đà Lạt, Hải Dương, VĩnhYên…) có thể tổ chức thoát nước theo hệthống hỗn hợp. Nước thải cũng có thể xử lý tạichỗ không đường cống ngay tại các hộ giađình, khu biệt thự, trang trại… Sau quá trìnhxử lý này, nước thải có thể tái sử dụng để tướicây, nuôi cá hoặc vệ sinh sân đường, chuồngtrại…Đối với ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: