Danh mục

Xử trí viêm gan B ở trẻ em

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 355.05 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
Thu Hiền

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết Xử trí viêm gan B ở trẻ em giúp cho các bạn hiểu được nguyên nhân, biểu hiện và giải pháp nhằm điều trị viêm gan B ở trẻ em. Mời các bạn tham khảo bài viết để bổ sung thêm kiến thức về lĩnh vực này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Xử trí viêm gan B ở trẻ emXỬ TRÍ VIÊM GAN B Ở TRẺ EM- Đa số những đứa trẻ với HBV mạn tính bị lây nhiễm trong giai đoạn chu sinh hoặc thời kỳ trẻcon. Nhiễm HBV mạn tính trong giai đoạn ấu thơ có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ bệnh tật về saunày, như là xơ gan và ung thư gan.- Phần lớn những đứa trẻ với HBV mạn đều nằm trong giai đoạn dung nạp miễn dịch. Điều trịhoặc là không có ích hoặc không được chỉ định trong giai đoạn này, và việc sử dụng bừa bãiđồng phân nucleotide/nucleoside có thể làm xuất hiện kháng thuốc ảnh hưởng nghiêm trọngtrong điều trị về sau.- Một số đứa trẻ với nhiễm HBV mạn có thể là đối tượng điều trị. Nhóm này bao gồm những đứatrẻ đang ở trong giai đoạn ban đầu của phản ứng miễn dịch, với ALT bất thường dai dẳng vàviêm gan mạn tính trên mô học.- Các lựa chọn điều trị bệnh viêm gan B mạn trong giai đoạn ấu thơ còn hạn chế.Khi đưa ra quyết định điều trị, điều quan trọng cần nhớ là diễn tiến tự nhiên của viêm ganB mạn ở trẻ em thay đổi phụ thuộc vào tuổi, kiểu mắc bệnh và chủng tộc. Những khác biệt nàycó vẻ là do tính dung nạp miễn dịch phát triển khi nhiễm trùng xuất hiện ở lưa tuổi sớm, mặc dùcơ chế chính xác vẫn chưa được biết. Trẻ em từ các nước dịch tễ bị mắc HBV trong giai đoạnchu sinh thường có HBsAg dương tính với nồng độ virus cao. Tốc độ chuyển đổi huyết thanhđột ngột ít hơn 2%/năm ở trẻ nhỏ hơn 3 tuổi, và 4-5% sau 3 tuổi. Ngược lại, trẻ em ở các nướckhông phải dịch tễ ít có vẻ mắc bệnh trong giai đoạn chu sinh. Trong trường hợp này, chúngthường mất HBeAg và HBV DNA huyết thanh trong 2 thập niên đầu của cuộc đời. Trong mộtnghiên cứu dọc ở trẻ em Ý trong vòng 29 năm có HBV mạn mà trải qua chuyển đổi huyết thanhHBeAg, 95% trong số đó không có xơ gan đã được theo dõi và thấy rằng HBV bị bất hoạt tronglần theo dõi gần nhất và 15% mất HBsAg. Các trẻ có chuyển đổi huyết thanh đột ngột thường cóALT cao xuất hiện sớm hơn trong đời. Mặc dù thay đổi viêm thường nhẹ trên sinh thiết gan ởcác trẻ viêm gan B mạn, xơ thường có thể rõ rệt. Trong một nghiên cứu gần đây với 76 đứa trẻvới HBV mạn có HBeAg dương tính và tăng ALT (tuổi trung bình 9,8), ít nhất một nữa có xơgan trung bình đến nặng, với 35% có xơ gan bắc cầu với thay đổi mô học thùy hoặc xơ gan. Xơgan là một biến chứng không thường gặp khi nhiễm HBV giai đoạn ấu thơ. Mặc dù tỷ lệ mớimắc là không rõ ràng. Một trong những nghiên cứu lớn nhất bao gồm 292 đứa trẻ có HBsAgdương tính và tăng ALT. Xơ gan được tìm thấy trong 10 bệnh nhân (3%) ở độ tuổi trung bình4,0±3,3, không có đứa trẻ nào xơ gan trong quá trình theo dõi (từ 1 đến 10 năm).Không có dữ liệu về việc điều trị nhiễm HBV cấp ở trẻ em. Phần lớn trẻ nhiễm trong giaiđoạn chu sinh đều không có triệu chứng, một tỷ lệ nhỏ trong nhóm nhiễm viêm gan cấp, thậmchí hoại tử, nhanh chóng mất HBsAg và virus máu. Hiển nhiên rằng một số trẻ với HBV mạncần điều trị dự phòng biến chứng như xơ gan và ung thư gan ở độ tuổi trưởng thành sớm. Xử trítrẻ với HBV mạn bao gồm giáo dục và tư vấn, giám sát ung thư gan, và liệu pháp kháng virustrong một số trường hợp.Có ít các thử nghiệm lớn ở trẻ em về việc đưa ra quyết định điều trị. Điều trị thường đượcxem xét ở giai đoạn miễn dịch hoạt động, thường được định nghĩa là ALT gấp 2 lần bình thườngvà HBV DNA trên 20000UI/mL ít nhất 6 tháng. Hầu như tất cả trẻ nhiễm HBV mạn đều HBeAgdương tính, nhưng liệu pháp cũng có thể được xem xét ở những trẻ có HBeAg âm tính, với điềukiện là virus máu trên 104 IU/mL đã được ghi nhận và bệnh lý khác đã được loại trừ. Không cóđiều trị hiện hành nào là có tác dụng cao. Do đó, điều trị hay không phụ thuộc các đặc điểm đặchiệu của bệnh nhân dự báo tính hiệu quả của điều trị, bao gồm ALT bất thường dai dẳng và bệnhlý hoạt động trên sinh thiết, cũng như xem xét dựa trên khả năng thành đạt được các mục tiêu trịliệu thích hợp.Khả năng đáp ứng với bất kỳ các thuốc hiện hành phụ thuộc rất nhiều vào độ tăng mengan. ALT thấp hơn 1.5 đến 2 lần cận trên giới hạn bình thường thường chỉ rằng bệnh nhân đangtrong giai đoạn dung nạp miễn dịch của nhiễm HBV. Những đứa trẻ như vậy thường không phảiứng viên cho điều trị, bởi vì điều trị với bất kỳ loại thuốc nào đang hiện hành cũng không đưađến tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh cao khi so với không điều trị. Điều trị kéo dài với các đồngphân nucleoside và nucleotide ở giai đoạn này đi kèm với ít ích lợi, nhưng tăng nguy cơ khángvirus, đối với thuốc lựa chọn và các thuốc tương đồng. Một ngoại lệ có thể ở những trẻ dung nạpmiễn dịch mà sẽ trải qua ức chế miễn dịch, như là những đứa sẽ được hóa trị liệu hoặc cấy ghéptế bào gốc, cơ quan đặc, cũng như ở người lớn ức chế HBV nên được xem xét ở những thời điểmquan trọng này để tránh viêm gan hoạt động. Trẻ em với ALT lớn hơn 10 lần giới hạn trên có thểtrong giai đoạn chuyển đổi huyết thanh HBeAg tức thì, và nên được theo dõi vài tháng trước khibắt đầu điều trị. Có thể có một số các lựa chọn khác về quyết định điều trị cho riêng từng bệnhnhân, ví dụ đồng nhiễm viêm ...

Tài liệu được xem nhiều: