Y tế dự phòng -rất quan trọng đối với Việt Nam
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 128.79 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tham khảo tài liệu y tế dự phòng -rất quan trọng đối với việt nam, y tế - sức khoẻ, y học thường thức phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y tế dự phòng -rất quan trọng đối với Việt Nam Y tế dự phòng -rất quan trọng đối với Việt Nam GS TS Nguyễn Văn Tuấn , Kiều bào ÚcTrước tình hình phát triển kinh tế nhanh chóng đã và đang diễn ra trong vòng mộtthập niên trở lại đây, và nước ta không còn xếp vào nhóm các nước nghèo khó nữa,chúng ta có xu hướng quên rằng tình hình y tế và sức khỏe người dân ở nước tavẫn ở trong tình trạng của một nước nghèo. Thật vậy, thực trạng về bệnh tiêu chảycấp tính, bệnh tả, cúm gia cầm, SARS, v.v… trong thời gian gần đây là những nhắcnhở rằng nước ta vẫn còn đang đương đầu với những bệnh nhiệt đới, những vấnnạn của các nước nghèo. Trong tình hình như thế, hơn lúc nào hết, nước ta cần mộtmạng lưới y tế cộng đồng tốt để phòng bệnh từ cấp cơ sở.Mỗi lần đọc một bản tin về một ca giải phẫu lớn được thực hiện thành công ở nướcta, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng là vì giới y khoa nước ta chứng tỏ cho thế giới biếtrằng chúng ta không thua kém bất cứ ai về mặt kĩ năng phẫu thuật. Nhưng lo là vìtôi sợ những thành công mang tính đơn lẻ như thế làm cho chúng ta sao lãng một“bức tranh” lớn hơn và nghiêm trọng hơn: sức khỏe cộng đồng. Nhìn qua bức tranhsức khỏe cộng đồng tôi cho rằng Nhà nước phải tập trung đầu tư vào việc pháttriển hệ thống y tế cộng đồng hay y tế dự phòng thay vì tập trung vào các thiết bị ykhoa đắt tiền.Bức tranh sức khỏe Việt NamHãy nhìn vào bức tranh y tế nước ta cho kĩ! Thống kê chính thức của Bộ Y tế chothấy các bệnh sau đây nằm trong hàng “top 10” ở nước ta: các bệnh viêm phổi,viêm họng và viêm Amidan cấp, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêuchảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét, tai nạn giaothông, và các bệnh đường hô hấp.Vẫn theo thống kê của Bộ Y tế, những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở nước ta(theo thứ tự) là: các bệnh viêm phổi, các bệnh liên quan đến hệ thống hô hấp ( kẻcả lao ), thai chậm phát triển, tai nạn giao thông, suy dinh dưỡng, rối loạn gắn liềnvới thai nghén và cân nặng không đủ khi sinh, và các tổn thương hô hấp đặc hiệukhác của thời kì chu sinh.Bức tranh sức khỏe trên cho chúng ta thấy rằng các bệnh viêm và nhiễm trùng, suydinh dưỡng, và tai nạn giao thông là những bệnh dân ta thường hay mắc và cũngchính là những “tử thần” nguy hiểm nhất hiện nay.Cái mẫu số chung của các bệnh này là chúng liên quan đến sự nghèo nàn. Hãy lấysuy dinh dưỡng ở trẻ em làm ví dụ. Ngoài các nguyên nhân sinh học và lâm sàng,đứng trên quan điểm của y tế cộng đồng, nguyên nhân chính của suy dinh dưỡng --như tên gọi rất chính xác -- là thiếu ăn. Thiếu ăn là do nghèo và hoàn cảnh kinh tếgia đình khó khăn. Trong khi nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, một bộ phậndân số -- nhất là những người sống trong vùng nông thôn hay vùng xa -- vẫn chưađủ ăn ( và chưa đủ mặc ). Theo kết quả nghiên cứu ở Đồng Nai mà tôi vừa đề cậptrên, phần lớn (76%) trẻ em suy dinh dưỡng là những em có cha mẹ là nông dânhay làm thuê. Gia đình càng có nhiều con, tỉ lệ suy dinh dưỡng càng cao.Một đặc điểm chung của những bệnh hàng đầu hiện nay ở nước ta là chúng rất phổbiến. Chẳng hạn như suy dinh dưỡng, có báo cáo cho thấy cứ 5 trẻ em ở nước ta thìcó 1 em suy dinh dưỡng ( theo một thống kê trong hội nghị tổng kết đánh giá cáchoạt động dinh dưỡng năm 2007 do Bộ Y tế và Viện Dinh dưỡng quốc gia tổ chứcvào đầu năm nay ). Hay như bệnh viêm phổi ( là nguyên nhân tử vong số 1 ), mỗinăm có đến khoảng 360.000 người mắc. Hay như hút thuốc lá, có nghiên cứu chothấy khoảng 73% đàn ông và thanh niên ( tuổi từ 18 trở lên ) hút thuốc lá. Đây làmột tỉ lệ cao nhất thế giới mà các nhà nghiên cứu Việt-Mĩ đã ghi nhận. Cao hơn cảTrung Quốc và Nhật! Nếu tính theo dân số hiện hành, nước ta có 18,24 triệu thanhniên và đàn ông trên 20 tuổi hút thuốc lá!Người viết bài này ước tính rằng mỗi năm có khoảng 11.500 thanh niên và đàn ôngtrên 20 tuổi mắc bệnh ung thư phổi; trong số này 85% ( hay 9.800 trường hợp ) làcó liên quan đến hút thuốc lá. Hút thuốc lá cũng là yếu tố nguy cơ có liên quan đến85% trường hợp ung thư họng, nhưng số lượng bệnh nhân ít hơn ung thư phổi. Chiphí liên quan đến thuốc lá ( chỉ tính chi phí điều trị trong bệnh viện ) là khoảng 78triệu USD (thời giá 2005).Nhu cầu cho một hệ thống y tế dự phòngTư duy y khoa truyền thống thường quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu của bệnhnhân. Tư duy này hun đúc thành những qui định về y đức như có trách nhiệm vớicá nhân người bệnh, và các cơ sở vật chất y tế thường được thiết kế để đáp ứng nhucầu của người bệnh. Ngay cả nghiên cứu y khoa cũng chịu ảnh hưởng bởi tư duynày, vì một nghiên cứu y khoa cổ điển thường bắt đầu với câu hỏi “tại sao bệnhnhân mắc bệnh”.Ngày nay, chúng ta biết rằng nếu hệ thống y tế chỉ để đáp ứng nhu cầu của bệnhnhân thì vẫn chưa đủ. Do đó, tư duy y khoa truyền thống này đã được khai triểnthành một bước cao hơn và qui mô hơn: đó là phòng bệnh và nhận dạng nhữngnhóm người có nguy cơ mắc bệnh cao. Nói cách khác, đây chính là tư duy y tế dựphòng. Thật ra, tư duy này không mới đối với người Việt, vì Việt Nam ta vẫn cócâu “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.Tư duy y khoa truyền thống đặt trọng tâm vào việc điều trị và chữa bệnh, còn tưduy y tế dự phòng đặt trọng tâm vào việc phòng bệnh. Đối tượng của tư duy y khoatruyền thống là cá nhân người bệnh, còn đối tượng của tư duy y khoa dự phòng làcộng đồng. Đối với y khoa truyền thống, một cá nhân hoặc là có hay không cóbệnh (do đó, có người ví von rằng y khoa cổ điển chỉ biết đếm từ 0 đến 1), nhưng ytế dự phòng quan tâm đến nguy cơ mắc bệnh của một quần thể ( và nguy cơ này cóthể dao động từ thấp, trung bình, đến cao ). Do đó, chỉ số để đánh giá hiệu quả lâmsàng của y khoa cổ điển là sự thành công trong việc cứu một bệnh nhân, nhưng chỉsố lâm sàng của y tế dự phòng là giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh của một cộng đồngvà kéo dài tuổi thọ cho một dân số.Y tế dự phòng không chỉ quan tâm đến các bệnh truyền nhiễm hay suy dinh dưỡn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Y tế dự phòng -rất quan trọng đối với Việt Nam Y tế dự phòng -rất quan trọng đối với Việt Nam GS TS Nguyễn Văn Tuấn , Kiều bào ÚcTrước tình hình phát triển kinh tế nhanh chóng đã và đang diễn ra trong vòng mộtthập niên trở lại đây, và nước ta không còn xếp vào nhóm các nước nghèo khó nữa,chúng ta có xu hướng quên rằng tình hình y tế và sức khỏe người dân ở nước tavẫn ở trong tình trạng của một nước nghèo. Thật vậy, thực trạng về bệnh tiêu chảycấp tính, bệnh tả, cúm gia cầm, SARS, v.v… trong thời gian gần đây là những nhắcnhở rằng nước ta vẫn còn đang đương đầu với những bệnh nhiệt đới, những vấnnạn của các nước nghèo. Trong tình hình như thế, hơn lúc nào hết, nước ta cần mộtmạng lưới y tế cộng đồng tốt để phòng bệnh từ cấp cơ sở.Mỗi lần đọc một bản tin về một ca giải phẫu lớn được thực hiện thành công ở nướcta, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng là vì giới y khoa nước ta chứng tỏ cho thế giới biếtrằng chúng ta không thua kém bất cứ ai về mặt kĩ năng phẫu thuật. Nhưng lo là vìtôi sợ những thành công mang tính đơn lẻ như thế làm cho chúng ta sao lãng một“bức tranh” lớn hơn và nghiêm trọng hơn: sức khỏe cộng đồng. Nhìn qua bức tranhsức khỏe cộng đồng tôi cho rằng Nhà nước phải tập trung đầu tư vào việc pháttriển hệ thống y tế cộng đồng hay y tế dự phòng thay vì tập trung vào các thiết bị ykhoa đắt tiền.Bức tranh sức khỏe Việt NamHãy nhìn vào bức tranh y tế nước ta cho kĩ! Thống kê chính thức của Bộ Y tế chothấy các bệnh sau đây nằm trong hàng “top 10” ở nước ta: các bệnh viêm phổi,viêm họng và viêm Amidan cấp, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêuchảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét, tai nạn giaothông, và các bệnh đường hô hấp.Vẫn theo thống kê của Bộ Y tế, những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở nước ta(theo thứ tự) là: các bệnh viêm phổi, các bệnh liên quan đến hệ thống hô hấp ( kẻcả lao ), thai chậm phát triển, tai nạn giao thông, suy dinh dưỡng, rối loạn gắn liềnvới thai nghén và cân nặng không đủ khi sinh, và các tổn thương hô hấp đặc hiệukhác của thời kì chu sinh.Bức tranh sức khỏe trên cho chúng ta thấy rằng các bệnh viêm và nhiễm trùng, suydinh dưỡng, và tai nạn giao thông là những bệnh dân ta thường hay mắc và cũngchính là những “tử thần” nguy hiểm nhất hiện nay.Cái mẫu số chung của các bệnh này là chúng liên quan đến sự nghèo nàn. Hãy lấysuy dinh dưỡng ở trẻ em làm ví dụ. Ngoài các nguyên nhân sinh học và lâm sàng,đứng trên quan điểm của y tế cộng đồng, nguyên nhân chính của suy dinh dưỡng --như tên gọi rất chính xác -- là thiếu ăn. Thiếu ăn là do nghèo và hoàn cảnh kinh tếgia đình khó khăn. Trong khi nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, một bộ phậndân số -- nhất là những người sống trong vùng nông thôn hay vùng xa -- vẫn chưađủ ăn ( và chưa đủ mặc ). Theo kết quả nghiên cứu ở Đồng Nai mà tôi vừa đề cậptrên, phần lớn (76%) trẻ em suy dinh dưỡng là những em có cha mẹ là nông dânhay làm thuê. Gia đình càng có nhiều con, tỉ lệ suy dinh dưỡng càng cao.Một đặc điểm chung của những bệnh hàng đầu hiện nay ở nước ta là chúng rất phổbiến. Chẳng hạn như suy dinh dưỡng, có báo cáo cho thấy cứ 5 trẻ em ở nước ta thìcó 1 em suy dinh dưỡng ( theo một thống kê trong hội nghị tổng kết đánh giá cáchoạt động dinh dưỡng năm 2007 do Bộ Y tế và Viện Dinh dưỡng quốc gia tổ chứcvào đầu năm nay ). Hay như bệnh viêm phổi ( là nguyên nhân tử vong số 1 ), mỗinăm có đến khoảng 360.000 người mắc. Hay như hút thuốc lá, có nghiên cứu chothấy khoảng 73% đàn ông và thanh niên ( tuổi từ 18 trở lên ) hút thuốc lá. Đây làmột tỉ lệ cao nhất thế giới mà các nhà nghiên cứu Việt-Mĩ đã ghi nhận. Cao hơn cảTrung Quốc và Nhật! Nếu tính theo dân số hiện hành, nước ta có 18,24 triệu thanhniên và đàn ông trên 20 tuổi hút thuốc lá!Người viết bài này ước tính rằng mỗi năm có khoảng 11.500 thanh niên và đàn ôngtrên 20 tuổi mắc bệnh ung thư phổi; trong số này 85% ( hay 9.800 trường hợp ) làcó liên quan đến hút thuốc lá. Hút thuốc lá cũng là yếu tố nguy cơ có liên quan đến85% trường hợp ung thư họng, nhưng số lượng bệnh nhân ít hơn ung thư phổi. Chiphí liên quan đến thuốc lá ( chỉ tính chi phí điều trị trong bệnh viện ) là khoảng 78triệu USD (thời giá 2005).Nhu cầu cho một hệ thống y tế dự phòngTư duy y khoa truyền thống thường quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu của bệnhnhân. Tư duy này hun đúc thành những qui định về y đức như có trách nhiệm vớicá nhân người bệnh, và các cơ sở vật chất y tế thường được thiết kế để đáp ứng nhucầu của người bệnh. Ngay cả nghiên cứu y khoa cũng chịu ảnh hưởng bởi tư duynày, vì một nghiên cứu y khoa cổ điển thường bắt đầu với câu hỏi “tại sao bệnhnhân mắc bệnh”.Ngày nay, chúng ta biết rằng nếu hệ thống y tế chỉ để đáp ứng nhu cầu của bệnhnhân thì vẫn chưa đủ. Do đó, tư duy y khoa truyền thống này đã được khai triểnthành một bước cao hơn và qui mô hơn: đó là phòng bệnh và nhận dạng nhữngnhóm người có nguy cơ mắc bệnh cao. Nói cách khác, đây chính là tư duy y tế dựphòng. Thật ra, tư duy này không mới đối với người Việt, vì Việt Nam ta vẫn cócâu “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.Tư duy y khoa truyền thống đặt trọng tâm vào việc điều trị và chữa bệnh, còn tưduy y tế dự phòng đặt trọng tâm vào việc phòng bệnh. Đối tượng của tư duy y khoatruyền thống là cá nhân người bệnh, còn đối tượng của tư duy y khoa dự phòng làcộng đồng. Đối với y khoa truyền thống, một cá nhân hoặc là có hay không cóbệnh (do đó, có người ví von rằng y khoa cổ điển chỉ biết đếm từ 0 đến 1), nhưng ytế dự phòng quan tâm đến nguy cơ mắc bệnh của một quần thể ( và nguy cơ này cóthể dao động từ thấp, trung bình, đến cao ). Do đó, chỉ số để đánh giá hiệu quả lâmsàng của y khoa cổ điển là sự thành công trong việc cứu một bệnh nhân, nhưng chỉsố lâm sàng của y tế dự phòng là giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh của một cộng đồngvà kéo dài tuổi thọ cho một dân số.Y tế dự phòng không chỉ quan tâm đến các bệnh truyền nhiễm hay suy dinh dưỡn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
sổ tay y tế xử ý ổ dịch tả ổ dịch tả phòng chống dịch tả điều trị dịch tả y tế dựng phòng y tế công cộng dịch tả và nhà vệ sinhGợi ý tài liệu liên quan:
-
6 trang 178 0 0
-
8 trang 138 0 0
-
8 trang 106 0 0
-
92 trang 104 1 0
-
Tỷ số giới tính khi sinh trên thế giới và ở Việt Nam
9 trang 83 0 0 -
6 trang 82 0 0
-
Kiến thức, thái độ và thực hành về sử dụng muối ăn của người dân tại thành phố Huế năm 2022
15 trang 57 0 0 -
Bài giảng Pháp luật y tế - Đạo đức nghề nghiệp: Luật Khám bệnh, chữa bệnh
62 trang 53 0 0 -
234 trang 45 0 0
-
Chất lượng cuộc sống của người cao tuổi phường Hố Nai, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai năm 2018
8 trang 37 0 0