Danh mục

600 năm bạc mặt vì bạc

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 168.51 KB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nghề chạm bạc từng một thời bị xếp vào "xó bếp" rồi cũng lận đận ngoi ngóp góp mặt trên thị trường kim hoàn.Người trong nghề kim hoàn chạm bạc nước ta thực chẳng ai mà không biết Đồng Xâm ở Kiến Xương, Thái Bình. Đây không chỉ là cái nôi của nghề chạm bạc danh bất hư truyền mà còn là "linh hồn" của thứ nghề rất ít người biết đến. Nhưng, ai đã đa mang lấy nghề chạm bạc thì dù muốn bỏ, muốn rời xa cũng khó khi đã trót lấy nghiệp vào thân....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
600 năm bạc mặt vì bạc600 năm bạc mặt vì bạcNghề chạm bạc từng một thời bị xếp vào xó bếp rồicũng lận đận ngoi ngóp góp mặt trên thị trường kimhoàn.Người trong nghề kim hoàn chạm bạc nước ta thực chẳngai mà không biết Đồng Xâm ở Kiến Xương, Thái Bình.Đây không chỉ là cái nôi của nghề chạm bạc danh bất hưtruyền mà còn là linh hồn của thứ nghề rất ít ngườibiết đến. Nhưng, ai đã đa mang lấy nghề chạm bạc thì dùmuốn bỏ, muốn rời xa cũng khó khi đã trót lấy nghiệpvào thân.Đồng Xâm vốn là tên làng, một làng nhỏ chăm chú với nghềlúa nước thuộc xã Hồng Thái bây giờ. Nhưng thương hiệubạc Đồng Xâm thì không chỉ gói gọn trong cái làng nhỏ ấymà dàn trải sang cả làng và xã khác như Lê Lợi. Nghề lànhlan rộng nên người dân khu vực cũng thạo nghề lắm, nhà nàocũng biết nghề, đứa trẻ con cũng biết chạm bạc, thế nên đấtlúa mà nông nghiệp chỉ là nghề phụ, lời ông Phạm QuangNgừng, đương kim Chủ nhiệm HTX chạm bạc cho biết nhưvậy.Thế nhưng, nếu chỉ nhìn qua sự phát triển hiện thời vớinhững nhà tầng mái cao san sát nhau thì người ngoài dễnhầm sự thịnh vượng của nghề chạm bạc. Tôi cũng từngnhầm khi xuýt xoa với ông chủ nhiệm. Nhưng thực tế khôngphải như vậy, dân Đồng Xâm đã 600 năm bạc mặt vì nghềchạm bạc. Ông Ngừng bảo, cái nghề này không làm ra thócra gạo, nó thuộc thứ nghề phục vụ người giàu nên lao đaolắm.Phụ nữ cũng tham gia làm nghề.Từ khi ông tổ nghề tên là Nguyễn Kim Lâu học mót đượcnghề từ nước Đại Minh và đem về Đồng Xâm truyền dạy từnăm 1428 thì đã có biết bao biến động. Nghề phục vụ vuachúa, người giàu có nhưng lại không giàu được. Thời vinhquang nhất thì cũng đã cách giờ quá lâu rồi. Thời ấy cụ KimLâu lập phường gồm 149 người tất thảy, trong đó có 1 trùmphường và 7 chi phường cai quản 7 hạng thợ. Ngày trước đểđược học nghề cũng không đơn giản bởi các luật tục khắt kheđào tạo những người thực sự có tâm và tài để không làm ôdanh nghề chạm bạc.600 năm ấy cho đến bây giờ, cùng với những biến động lịchsử, những no đói của thời đại khiến thợ bạc Đồng Xâmkhông ít phen lao đao. Ông Ngừng bảo, nhiều lần nghề chạmbạc đi vào quên lãng, bếp lò các hộ làm nghề lạnh tanh,không có tiếng khò thổi lửa, không tiếng đục đẽo leng keng,tất cả như muốn quên đi thứ nghề đã khiến họ phải bạc mặtvới đời.Lửa lò nung bạc Đồng Xâm.Cầm tay chỉ việcNghề chạm bạc dù bạc bẽo đến vậy nhưng cũng chẳng cósách vở nào dạy cách làm nghề. Những ai muốn học thì chỉhọc mót bằng cách quan sát thợ lành nghề. Tất tần tật thợchạm bạc Đồng Xâm từ xưa tới nay cũng chỉ được dạy bằngcách cầm tay chỉ việc, không có lý luận về nghề, càng khôngcó khái niệm nghề chạm bạc là gì, khẳng định của ông PhạmQuang.Hiện thời, 2 xã Hồng Thái và Lê Lợi là tập trung đông ngườilàm nghề chạm bạc, một số HTX cũng được mở ra với mụcđích duy trì nghề truyền thống và để kiếm thêm thu nhập.Tuy nhiên, số người gia nhập HTX là rất khiêm tốn, các thợgiỏi và người có vốn liếng thì họ tự mở xưởng tại gia, thu hútnhân lực và sản xuất theo đơn đặt hàng.Một thợ chạm bạc đang tạo khuôn sản phẩm.Đồng Xâm cũng là thủ phủ lớn nhất nhì nước ta về kim hoànchạm bạc với đủ mọi mặt hàng, từ nhẫn đeo tay đến đỉnhđồng mâm bạc. Đặc biệt, những chiếc dĩa bạc với cán cầmbằng sừng được chế tác rất công phu chỉ để xuất khẩu sangchâu Âu với giá cao đang là mặt hàng được sản xuất nhiềunhất.Những đứa trẻ chỉ 7 - 8 tuổi cũng lúi húi giúp bố mẹ bàosừng, cưa bạc hay đục đẽo những hoa văn họa tiết trên sảnphẩm. Nhiều cụ già dù mắt mờ chân chậm vẫn hăng say vẽmẫu và hướng dẫn con cháu cách nấu bạc, dập khuôn. Một sốthanh niên đang học nghề được những người thợ cả chỉ dạytừ cách chọn bạc đến sự cách điệu trong tạo mẫu.Ông Ngừng cho biết: Cái nghề này đòi hỏi phải khéo tay, cóóc thẩm mỹ cao độ và phải cực đam mê thì mới mong cónhững sản phẩm tuyệt đích. Nếu không có những yếu tố ấy,thứ làm ra chỉ rất bình thường, khô khan. Vì thế, để trở thànhthợ chỉ mất 2 năm, nhưng nếu là thợ giỏi thì phải cả đời họchỏi không ngừng.Đỉnh đồng với những hoa văn tinh tế nhất.Lửa bạcNghề kim hoàn luôn gắn với lửa, lửa trong lò có cháy thìnghề chạm bạc mới có cơ may phát triển, ông Ngừng chobiết. Vậy là niềm vui của bạc Đồng Xâm lại có cơ hội khôngbị tụt lùi khi khách ta khách tây nườm nượp đặt hàng. ÔngNgừng nói văn vẻ: Trong khi sự khủng hoảng kinh tế thếgiới đẩy 60 doanh nghiệp làng nghề Việt Nam xuống hố thìlàng chạm bạc Đồng Xâm vẫn sống khoẻ.Nghệ nhân Nguyễn Văn Ngoan, Chủ tịch Hội chạm bạcĐồng Xâm cho biết: Người thợ bạc phải tinh và ranh thì mớisống được, ngoài sự tinh tế về sản phẩm thì mình cũng phảiđa dạng hoá thì mới có cơ hội tồn tại. Thợ chạm bạc của làngthu nhập cũng khá ổn định, từ 3 - 4 triệu đồng/tháng.Khu trưng bày sản phẩm bạc Đồng Xâm.Chính sự khởi sắc làng nghề nên ở Đồng Xâm không lúc nàongớt tiếp búa đập, tiếng đục đẽo kim hoàn. Lửa lò lúc nàocũng cháy đỏ rực, ...

Tài liệu được xem nhiều: