Danh mục

AIDS, CHẶNG ÐƯỜNG 20 NĂM

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 123.73 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) được báo cáo lần đầu tiên cách đây 20 năm dưới tựa đề " Viêm phổi do Pneumocystis - Los Ageles (MMWR 5/6/1981). Lúc bấy giờ chưa có ai hình dung được qui mô và mức độ trầm trọng của hội chứng này 20 năm sau sẽ như thế nào. Ðến tháng 12/2000 trên thế giới đã có 21,8 triệu người chết vì AIDS. Bài này sẽ điểm lại những cột mốc phát triển quan trọng của đại dịch AIDS trong 20 năm qua.? Những năm đầu: tình trạng rơi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
AIDS, CHẶNG ÐƯỜNG 20 NĂM AIDS, CHẶNG ÐƯỜNG 20 NĂM Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) được báo cáo lần đầutiên cách đây 20 năm dưới tựa đề Viêm phổi do Pneumocystis - LosAgeles (MMWR 5/6/1981). Lúc bấy giờ chưa có ai hình dung được qui môvà mức độ trầm trọng của hội chứng này 20 năm sau sẽ như thế nào. Ðếntháng 12/2000 trên thế giới đã có 21,8 triệu người chết vì AIDS. Bài này sẽđiểm lại những cột mốc phát triển quan trọng của đại dịch AIDS trong 20năm qua.? Những năm đầu: tình trạng rơi tự do Bài báo đầu tiên nói trên mô tả 5 thanh niên đồng tính luyến ái mắcmột bệnh viêm phổi hiếm gặp (do Pneumocystis carinii) và các nhiễm khuẩnkhác thường khác; đồng thời tỉ lệ các loại tế bào lymphô của họ cũng bấtthường và chứa cytomegalovirus (CMV). Sau đó vài tháng, có nhiều lô bệnhnhân khác được báo cáo và đã hình thành những nét cơ bản của một bệnhdịch. Ban đầu bệnh nhân là những người có sinh hoạt tình dục đồng giớinam hoặc tiêm chích ma túy, nhưng chẳng bao lâu sau người ta đã xác địnhđược những đối tượng có nguy cơ cao (người được truyền máu, trẻ nhỏ,quan hệ tình dục khác giới với người nhiễm bệnh, tù nhân, người châu Phi.) Trong những năm đầu, có nhiều giả thiết về nguyên nhân của AIDS.Tác nhân đầu tiên được nghĩ đến là CMV, một siêu vi có tiềm năng làm suygiảm miễn dịch, và một số tác giả cho rằng siêu vi đã tăng độc lực mà khôngrõ lý do. Tuy vậy, giả thiết này không giải thích được cho mọi trường hợpnên đã bị loại bỏ. Kế đó, amyl nitrit (một loại thuốc) và isobutyl nitrit (mộtchất gần gũi với hóa chất khử mùi) là các tác nhân hóa học bị nghi ngờ. Cảhai hóa chất này đều được dùng làm chất kích dục nhưng đồng thời cũng gâyức chế miễn dịch. Nhưng sau đó, có những trường hợp AIDS xảy ra trênngười không dùng những hóa chất ấy. Một siêu vi mới đã được nghĩ đến,nhất là đối với những người hiểu biết về dịch tễ học viêm gan siêu vi B, vìbệnh này cũng xảy ra trên cùng những nhóm nguy cơ đó. Ðến tháng 5/1983,một siêu vi được phát hiện trên bệnh nhân AIDS và sau đó đã được chứngminh là tác nhân gây bệnh. Ðó là một loại retrovirus trên người, được gọi làHIV (human immunodeficiency virus). Về điều trị, nhiều thuốc đã được thử nghiệm trong những năm đầuthập niên 80, nhưng sau những phấn khích ban đầu, tất cả đều không thànhcông. Cảm giác tuyệt vọng và lo lắng ngày càng tăng đã mở ngõ cho cáclang băm hành nghề. Một trong những phương thuốc lừa bịp điển hình làMM-1 của một bác sĩ phẫu thuật Ai Cập với giá 75.000 USD.?? Cuối thập niên 80: tiến triển chậm Khi đã tìm ra được nguyên nhân, bắt đầu có những nghiên cứu tìm cáctác nhân có thể tác động lên enzym phiên mã ngược cần cho HIV dịch mã từRNA sang DNA. Năm 1986, Nhóm Nghiên cứu Lâm sàng về AIDS (ACTG)của Viện y tế Quốc Gia Hoa Kỳ được thành lập và đã thử nghiệm hơn mườitác nhân trị liệu trên cả người lớn lẫn trẻ em. Công trình nghiên cứu này, vớisự tài trợ của các công ty dược phẩm lớn, đã dẫn đến sự ra đời bản hướngdẫn khuyến nghị điều trị ba thuốc hiện nay. Zidovudine (AZT) là một trong những hợp chất đầu tiên được thửnghiệm (1987), và trở thành thuốc đầu tiên được công nhận để chữa AIDS.Nhưng chẳng bao lâu sau, bệnh nhân tỏ ra phản đối vì thuốc đắt tiền, độc vàít hiệu quả. Theo họ, tất cả bệnh nhân dùng AZT đều chết! Ðây là thời kỳcăng thẳng giữa cộng đồng người bệnh và các cơ quan y tế. Có một sự bấtđồng về sự tiếp cận thuốc nghiên cứu, chọn lựa đề cương, thiết kế nghiêncứu và cách lý giải kết quả, và trên hết là bước đi và sự chân thật của nghiêncứu khoa học. Ngay cả khái niệm nền tảng là thử nghiệm đối chứng với giảdược cũng trở thành điều tranh cãi vì nhiều người cho đó là phi đạo đức. Trong những năm sau khi công nhận AZT, nghiên cứu tiến bộ rấtchậm; tuy có thêm một số thuốc tương đồng nucleoside được tìm ra và đượcso sánh trong nhiều thử nghiệm, nhưng kết quả có nhiều khác biệt. Tiến bộthật sự chỉ đạt được trong việc dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn cơ hội, đặcbiệt là viêm phổi P. carinii và nhiễm Mycobacterium avium.?? Giữa thập niên 90: nhiều hy vọng Trong những năm 90, liệu pháp hoạt tính cao kháng-retrovirus(HAART) lần đầu tiên xuất hiện và đã cơ bản thay đổi tình hình dịch tễ tạiHoa Kỳ. Ðến lúc này, giữa cộng đồng người bệnh và cộng đồng y khoa bắtđầu có sự hợp tác tích cực, đánh dấu cho những nguyên tắc chăm sóc AIDShiện nay. Hiệu quả tiềm năng của những thuốc mới đã được biết từ trước khi cónhững nghiên cứu lâm sàng khẳng định (Bảng 1). Bệnh nhân nhiễm HIVmạn tính được điều trị với thuốc ức chế protease ritonavir có nồng độ RNAHIV giảm rõ rệt, phản ánh sự gián đoạn khả năng sao chép cao của HIV(hàng tỉ bản sao mỗi ngày). Số lượng tế bào CD4 của họ cũng tăng, chứng tỏkhả năng tái tạo tế bào CD4. Hai kết quả này đã ảnh hưởng sâu sắc đến cáchtiếp cận điều trị kháng siêu vi sau đó của bác sĩ lâm sàn ...

Tài liệu được xem nhiều: