"người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen tamà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ tachính là kẻ thù của ta vậy".I/ Mở bài:- Nêu sở thích chung của mọi người là đều mong muốnđược khen- Lật lại vấn đề: có phải lúc nào khen cũng đúng, chê cũngđúng?
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Anh/chị có suy nghĩ gì về câu nỏi của Tuân Tử Anh/chị có suy nghĩ gì về câu nỏi của Tuân Tử: người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy.I/ Mở bài:- Nêu sở thích chung của mọi người là đều mong muốnđược khen- Lật lại vấn đề: có phải lúc nào khen cũng đúng, chê cũngđúng?- Trích dẫn câu nói và nêu ngắn gọn nội dung của câunói..II/ Thân bài:* Giải thích khái niệm- Khen là gì? Chê là gì? Ai là thầy? ai là bạn? ai là kẻ thù?=> ý nghĩa chung: câu nói đánh giá về sự khen chê ở đời,khẳng định thế nào là thầy, là bạn, là kẻ thù thông quaviệc khen chê.* Phân tích và chứng minh- Từ khái niệm chê, Tuân tử mở rộng thành chê phải->chê phải là jì: là phê bình 1 cách khái quát, trung thựcđúng lúc, đúng chỗ. Người chê... thầy của ta vì ngườichê phải là người nhận thấy cái sai, cái dở của ta, đểnhận thấy những điều ấy phải là người có trình độ hiểubiết hơn ta... -> người giúp ta tiến bộ chính là thầy ta.-> nêu dẫn chứng.[ tương tự cách làm ở vế trên, bạn cũng phân tích các vếcòn lại của câu nói]* Bình luận:- Bàn về thái độ của người khen, chê: Khen chê phải luônđúng mực+ Không nên khen quá -> trở thành lời nịnh bợ -> ngườidc khen tự đắc, tự mãn, sống ảo tưởng+ KHông nên chê quá -> nhục mạ người khác -> người bịchê cảm thấy sốc, hoặc tự ti, mặc cảm ...- Với người dc chê, bị khen+ Bình tĩnh cân nhắc về lời khen, chê,nhận ra bản chấtcủa việc khen chê+ Điều chỉnh cần thiết về thái độ, hành vi sau khi dc khenchê* Liên hệ với bản thânIII/ kết bài:Khẳng định lại tính đúng đắn của câu nói -> rút ra bài họccho mọi người Bài tham khảoTrung Hoa là một trong những cái nôi của văn hoá nhânloại. Từ thời cổ đại, người dân Trung Quốc có quyền tựhào về những bậc học giả, về những người thầy lỗi lạc,uyên bác với những triết lí nhân sinh trở thành chân lý chomọi thời đại. Tuân Tử là một trong số những bậc vĩ đại ấy.Và câu nói của ông: “ Người chê ta mà chê phải là thầy ta,người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve,nịnh bợ là kẻ thù của ta vậy”, cũng đủ cho hậu thế phảisuy nghĩ.Xã hội loài người ngày càng phát triển về kinh tế, về tưtưởng, nhận thức và cũng song hành với phát triển sựphức tạp trong mọi quan hệ đời sống. “ Miệng lưỡi thếgian” là điều không thể tránh khỏi. Mỗi con người sốngchung trong đồng loại cần phải biết chấp nhận lời chêtiếng khen của mọi người. Nhưng để nhận biết sự “thật” –“giả” trong mỗi lời khen tiếng chê, để có ứng xử thích hợp,quả không đơn giản. Câu nói của Tuân Tử đã giúp chúngta cái “kính chiếu yêu” nhận biết đâu là “thầy”, đâu là“bạn”, đâu là “thù” trong cuộc đời đầy phức tạp đó.Là một con người, kể cả bậc vua chúa, vĩ nhân, trongcuộc sống, thật khó tránh khỏi những sai lầm. Những lúcnhư thế, hẳn chúng ta nhận được những lời nhận xét củamọi người. Tất yếu, mỗi người khác nhau, sẽ có nhữngnhận xét, thái độ khác nhau về ta. Điều quan trọng là ởchính bản thân ta: biết nhận ra cái đúng, cái sai của mình;quan trọng hơn, trong vô số những lời “khen”, “chê” đó, tanhận ra ai là “thầy ta”, ai là “bạn ta”, ai là “kẻ thù” của tavậy!Lời dạy của Tuân tử thật chí lí: “Người chê ta mà chêđúng là thầy ta, người khen ta mà khen đúng là bạn ta”.Mỗi người, khi phạm điều sai, tự mình không dễ gì nhậnra. Người nhận ra cái sai của ta, lại “chê”- tức khẳng địnhcái sai của ta và chỉ cho ta biết - hẳn phải là người có tầmtri thức, hiểu biết hơn ta. Người đó xứng đáng là bậc“thầy” của ta về trí tuệ. Hơn thế, người thấy và dám chỉcho ta nhận ra cái sai của mình, để mình có hướng khắcphục, sửa chữa, hẳn đó phải là người có cái tâm thật caoquý: những muốn cho chúng ta nhanh chóng tiến bộ.Chúng ta, về thái độ, tình cảm không thể không tôn vinhngười đó là bậc “thầy” về nhân cách để ta học tập.Người “khen ta mà khen phải”- nghĩa là người đó khôngnhững không đố kị, hiềm khích trước những cái tốt, cáimạnh của ta, mà còn “khen”, cùng chung vui, chia ngọt sẻbùi…Đó hẳn là người bạn tốt, người bạn tri âm, tri kỉ củata vậy. Cuộc đời mỗi chúng ta, nếu có được nhiều người“thầy”, người “bạn” như thế thì hạnh phúc biết bao nhiêu.Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải ai khen hay chê tađều là “thầy”, là “bạn” của ta. Tuân Tử đã một lần nữa chỉcho ta biết cách nhận ra “ bộ mặt thật” của những “kẻ”hiểm độc đó. Đó là “kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta”, Tuân Tử tỏthái độ rõ rệt, dứt khoát khi gọi những loại người đó “là kẻthù của ta vậy”. Nhưng để nhận ra đâu là bạn “khen ta màkhen đúng” với “những kẻ vuốt ve, nịnh bợ” thật không dễ.Trước hết, kẻ vuốt ve, nịnh bợ, họ khen ta là xuất phátmục đích mưu cầu lợi ích riêng của chính họ. Bởi vậy,thành tích của ta chỉ có một, chúng thổi phồng lên ba, bốnhoặc nhiều hơn thế. Thậm chí, có khi chúng còn nguỵbiện, “phù phép” những khuyết điểm, sai lầm của ta thành“thành tích”. Những kẻ đó, luôn lấy việc “nịnh bợ” để tiếnthân, khiến cho người được khen ngày càng tự đánh mấtmình, xa rời lẽ phải…Thật đáng tiếc là những kẻ đó khôngthời đại không có. Sử sách đã ghi lại không biết bao nhiêubậc vua chúa đã bị những kẻ nịnh thần làm cho u mê, dẫnđến hãm hại trung thần, triều chính đổ nát, xã tắc suyvong…Lời dạy của Tuân Tử lại một lần nhắc nhở mỗichúng ta cần sáng suốt để nhận ra đâu là “bạn ta” khen tathật lòng; đâu là “kẻ vuốt ve, nịnh bợ” ta.Không chỉ đúng với xã hội xưa, mà ngày nay và với tất cảmọi người, ở trên mọi lĩnh vực, lời dạy của Tuân Tử nhưmột chiếc kính “chiếu yêu” giúp chúng ta nhận ra ngườitốt, kẻ xấu trong cuộc sống, trong học tập. Khi kinh tế thịtrường mở cửa, thì đội ngũ những kẻ chạy theo lợi nhuận,vì danh, vì lợi ngày càng nhiều. Nhân viên nịnh bợ thủtrưởng, cấp dưới luô ...