Danh mục

Ảnh hưởng của soy protein concentrate (SPC) tới enzyme tiêu hóa của cá cam nhật bản (Seriola quinqueradiata Temminck & Schlegel, 1845)

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 464.88 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 2,000 VND Tải xuống file đầy đủ (10 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Soy protein concentrate (SPC) là sản phẩm protein đã được xử lý loại bỏ hầu hết các chất kháng dưỡng từ bột đậu nành (Soy bean meal, SBM) nên được xem là nguồn protein thay thế tiềm năng cho bột cá (Fish meal, FM) trong thức ăn nuôi cá. Nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của SPC tới hoạt tính enzyme tiêu hóa của cá cam Nhật Bản (Seriola quinqueradiata) khi thay thế một phần protein bột cá trong thức ăn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Ảnh hưởng của soy protein concentrate (SPC) tới enzyme tiêu hóa của cá cam nhật bản (Seriola quinqueradiata Temminck & Schlegel, 1845) VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ẢNH HƯỞNG CỦA SOY PROTEIN CONCENTRATE (SPC) TỚI ENZYME TIÊU HÓA CỦA CÁ CAM NHẬT BẢN (Seriola quinqueradiata Temminck & Schlegel, 1845) La Xuân Thảo1* TÓM TẮT Soy protein concentrate (SPC) là sản phẩm protein đã được xử lý loại bỏ hầu hết các chất kháng dưỡng từ bột đậu nành (Soy bean meal, SBM) nên được xem là nguồn protein thay thế tiềm năng cho bột cá (Fish meal, FM) trong thức ăn nuôi cá. Tuy nhiên tăng trưởng của cá ăn SPC vẫn suy giảm so với FM, tương tự như khi cá ăn SBM. Do đó, nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của SPC tới hoạt tính enzyme tiêu hóa của cá cam Nhật Bản (Seriola quinqueradiata) khi thay thế một phần protein bột cá trong thức ăn. Kết quả cho thấy hoạt tính enzyme trypsin và lipase trong manh tràng và trong ruột trước của cá cam nuôi bằng thức ăn chứa SPC đã bị ức chế tương tự như ở cá nuôi bằng bột đậu nành (SBM) và suy giảm so với cá nuôi bằng bột cá (FM). Từ khóa: Soy protein concentrate, Soy bean meal, Fish meal, trypsin, lipase. I. GIỚI THIỆU hết các chất kháng dưỡng có trong protein đậu Protein đậu nành được chứng minh là nành thông thường (Peisker, 2001). Tuy nhiên nguồn protein có khả năng thay thế cho bột thực tế cho thấy khi thay thế hoàn toàn bột cá cá trong thức ăn cho một số loài cá, trong đó bằng SPC có bổ sung một số amino acid cần có cá cam Nhật Bản (Seriola quinqueradiata). thiết tương tự như trong bột cá thì tăng trưởng Tuy nhiên, khi lượng protein đậu nành thay thế của cá cam vẫn thấp hơn so với cá được nuôi tăng đã làm suy giảm sự tăng trưởng của cá cam bằng bột cá (Thao và ctv., 2017), tương tự xảy Nhật Bản. Trong nghiên cứu khác cho thấy tăng ra ở một loài cá khác như cá hồi Đại Tây Dương trưởng của cá hồi nước ngọt (Yamamoto và ctv., Salmo salar (Storebakken et al., 1998), cá bơn 2003) và cá cam Nhật Bản (Nguyen và ctv., Scophthalmus maximus L. (Day and Gonzalez, 2017) được cải thiện khi sử dụng protein đậu 2000), cá tráp Đại Tây Dương Sparus aurata nành đã qua tẩy rửa bằng cồn. Kết quả nghiên L. (Kissil et al., 2000), cá tráp đỏ Pagrus major cứu của Nguyen và ctv., (2011) cho thấy một số (Kader et al., 2010), cá khế California Seriola enzyme tiêu hóa như trypsin và lipase và sự tiết lalandi (Jirsa et al., 2011), cá giò Rachycentron dịch mật của cá cam Nhật Bản giảm thấp khi canadum (Salze et al., 2010), cá tuyết Đại Tây thay bột cá bằng protein đậu nành không qua Dương Gadus morhua (Colburn et al., 2012), cá tẩy rửa cồn hoặc cho ăn bột cá có bổ sung chiết bơn sao Platichthys stellatus (Li et al., 2015) và xuất từ dung dịch tẩy rửa protein đậu nành. Từ cá chim vây vàng Trachinotus ovatus (Wu et al., những kết quả nghiên cứu trên cho thấy trong 2015). Do đó, có thể giả thuyết rằng trong SPC protein đậu nành có chứa một số chất có khả vẫn còn tồn dư một hoặc một số thành phần có năng hòa tan trong cồn đã ức chế sự tiết enzyme ảnh hưởng tiêu cực tới sự tiết enzyme và dịch tiêu hóa và dịch mật dẫn tới những ảnh hưởng mật trong quá trình tiêu hóa của cá, dẫn tới tăng tiêu cực tới tăng trưởng của cá. Chính vì vậy, trưởng của cá bị suy giảm khi thay thế hoàn toàn SPC trở thành nguồn protein tiềm năng trong bột cá bằng SPC trong thức ăn. Vì vậy, nghiên công nghiệp sản xuất thức ăn viên cho thủy sản cứu này thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của vì SPC là sản phẩm được tinh chế đã loại bỏ hầu SPC tới enzyme và tiết dịch mật trong quá trình 1 Trung tâm quốc gia giống hải sản Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. * Email: lxuanthao@gmail.com TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 11 - THÁNG 7/2018 67 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II tiêu hóa của cá cam Nhật Bản khi thay thế một cứu Sinh học biển, thuộc Đại học Kochi, Nhật phần bột cá bằng SPC, từ đó làm sáng tỏ ảnh Bản. Tất cả cá được nuôi trong nhà 2 tháng và hưởng của các chất có thể hòa tan trong cồn còn cho ăn thức ăn viên (Marubeni Nisshin Feed Co. tồn dư trong SPC tới tăng trưởng của cá. Ltd.) để cá thích nghi với điều kiện thí nghiệm trước khi thực hiện thí nghiệm. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Mỗi công thức thức ăn được thực hiện trên 2.1. Công thức thức ăn 9 con cá cam Nhật Bản (Seriola quinqueradiata) Cá được bố trí cho ăn bằng 3 công thức có trọng lượng thân trung bình là 243,8g/ cá, thức ăn với thành phần protein khác nhau: bột được nuôi trong bể 200 L. Tất cả thí nghiệm cá (FM), bột đậu nành (SBM) và SPC (Bảng 1), được lặp lại 2 lần. Cá được nuôi trong điều kiện trong đó FM là công thức đối chứng. Thức ăn nước chảy liên tục ở nhiệt độ trung bình là 16 – được chuẩn bị trong phòng thí nghiệm. Tất cả 18 ºC. Cá được cho ăn bằng thức ăn thí nghiệm các nguyên liệu được trộn đều và ép thành viên trong vòng 18 ngày, cho ăn 1 lần trong ngày qua máy với đường kính 2,5 mm và được bảo lúc 10 giờ sáng và được siphon sạch chất thải quản ở -30 ºC cho tới khi dùng. sau cho ăn 1h. Trọng lượng cá trước và ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: