Danh mục

Artemia - Brine shrimp

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 215.27 KB      Lượt xem: 15      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Đặc điểm Artemia trưởng thành (dài khoảng 10-12 mm) có cơ thể kéo dài với hai mắt kép, ống tiêu hóa thẳng, râu cảm giác và 11 đôi chân ngực. Con đực có đôi gai giao cấu ở phần sau của vùng ngực (vị trí sau đôi chân ngực thứ 11). Con cái rất dễ nhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử cung nằm ngay sau đôi chân ngực thứ 11.Phân bố Artemia có mặt ở tất cả các châu lục trên thế giới, tuy nhiên sự phân bố này mang tính đặc trưng của loài: Artemia tunisiana :...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Artemia - Brine shrimp Artemia - Brine shrimpTên Tiếng Anh:Brine shrimpTên Tiếng Việt:ArtemiaPhân loạiNgành: ArthropodaLớp: BranchiopodaBộ: AnostracaHọ: ArtemiidaeGiống: ArtemiaLoài:Artemia franciscanaĐặc điểmArtemia trưởng thành (dài khoảng 10-12 mm) có cơ thể kéodài với hai mắt kép, ống tiêu hóa thẳng, râu cảm giác và 11đôi chân ngực. Con đực có đôi gai giao cấu ở phần sau củavùng ngực (vị trí sau đôi chân ngực thứ 11). Con cái rất dễnhận dạng nhờ vào túi ấp hoặc tử cung nằm ngay sau đôichân ngực thứ 11Phân bốArtemia có mặt ở tất cả các châu lục trên thế giới, tuy nhiênsự phân bố này mang tính đặc trưng của loài: Artemia tunisiana : Châu âu Artemia franciscana : Châu Mỹ (Bắc, Trung và NamMỹ) Artemia perrsimilis : Achentina Artemia urmiana : Iran Artemia monica : Mono Lake, CA-USATập tínhKhả năng thích nghi với các điều kiện môi trườngNhiệt độ, thức ăn và nồng độ muối là những nhân tố chínhảnh hưởng đến sự gia tăng mật độ của quần thể Artemia hoặcngay cả đến sự vắng mặt tạm thời của chúng (Sorgeloos,1980).Trong tự nhiên, Artemia thường hiện diện ở các thủy vực cónồng độ muối cao vì ít có sự hiện diện của các loài cá, tômdữ và các động vật cạnh tranh thức ăn khác như luân trùng,giáp xác nhỏ ăn tảo. Mặc dù Artemia có thể phát triển tốt ởnước biển tự nhiên nhưng chúng không thể di chuyển từ nơinày sang nơi khác qua đường biển do chúng không có cơ chếbảo vệ để chống lại sinh vật dữ (cá, tôm) và cạnh tranh vớicác sinh vật ăn lọc khác. Sự thích nghi về sinh lý của chúng ởđộ mặn cao giúp chúng chống lại sinh vật đó một cách hiệuquả, cơ chế này bao gồm:- Hệ thống điều hoà áp suất thẩm thấu rất tốt.- Khả năng tổng hợp các sắc tố hô hấp cao nhằm thích nghivới điều kiện có hàm lượng oxy thấp ở nơi có độ mặn cao.Đối với ao nuôi, độ mặn thấp (120‰) có thể gây chết cho Artemia. Độ mặncao còn là dẫn xuất tốt cho nhiệt độ vì vậy trong ao nuôithích hợp nhất là duy trì ở mức 80-100‰. Theo Wear vàHaslett, (1986) khi độ mặn thấp sẽ có nhiều địch hại và nhiềuloài tảo không thích hợp xuất hiện; khi độ mặn tăng cao sẽhạn chế sức sản xuất sơ cấp trong ao nuôi, hoặc làm giảmhiệu quả lọc thức ăn của Artemia, hơn nữa khi độ mặn tăngcao thì nhiệt độ cao và hàm lượng oxy giảm gây stressArtemia hậu quả là tăng trưởng chậm, sức sinh sản giảm,mức độ phụ hồi quần thể thấp, nếu quá ngưỡng sẽ gây chếthàng loạt (Vanhaeck và Sorgeloos, 1989). Nghiên cứu kháccho thấy ở độ mặn 120‰ thì sức sinh sản và năng suất trứngArtemia thấp hơn nhiều so với nuôi ở độ mặn 80‰ (NguyễnVăn Hoà, 2002).Tính ăn của Artemia và việc sử dụng tảo trong gây nuôiArtemiaArtemia là loại ăn lọc không chọn lựa đã được Reeve (1963)trình bày trong thí nghiệm sử dụng các loại tảo và mật độ tảokhác nhau để xác định tính ăn lọc của chúng, nhờ vào sự xácđịnh này mà một loạt thí nghiệm về sử dụng tảo đơn bào làmthức ăn cho Artemia đã được tiến hành nghiên cứu. Hơn nữa,tảo được phân lập và nuôi cấy để sử dụng trong nuôi trồngthuỷ sản cũng được xác định về thành phần dinh dưỡng củachúng (Coutteau, 1996, điều chỉnh từ Brown, 1991) và chothấy rằng thành phần lipid và carbohydrate trong mỗi loại tảocũng khá khác biệt. Tuy nhiên, các loại tảo tự nhiên khi đượcnuôi thuần trong môi trường dinh dưỡng thì thành phần dinhdưỡng trong tảo cũng được cải thiện, thí dụ như tảoDunaliella tertiolecta trong tự nhiên có hàm lượng lipid là15.0 pg/tế bào nhưng khi được nuôi trong môi trường Walnethì thành phần này tăng lên (22.28 pg/tế bào).Artemia với tập tính ăn lọc không chọn lựa của mình, chúngcó khả năng lọc các vật chất lơ lửng trong nước (mùn bã hữucơ, vi khuẩn, tế bào tảo đơn bào) ở phạm vi kích thước hạtnhỏ hơn 50 μm (Sorgeloos et al., 1986). Do vậy, một sốnghiên cứu về sử dụng vi tảo làm thức ăn trong nuôi sinhkhối Artemia đã được thực hiện trong những năm sau đó.Nghiên cứu về liều lượng tảo trong nuôi Artemia đã đượcEvjeno và Olsen (1999) trình bày trong thí nghiệm nuôiArtemia bằng tảo Isochrysis galbana. Trong thí nghiệm này 6nghiệm thức được triển khai với liều lượng thức ăn đưa vàobiến động từ 0.2 đến 20 mg C (carbon)/lít, thời gian nuôi là12 ngày và nồng độ muối trong suốt quá trình nuôi là 34ppt,nhiệt độ nước được duy trì trong khoảng 26-28oC. Kết quảcho thấy sự tăng trưởng của Artemia chịu ảnh hưởng khá lớncủa liều lượng thức ăn đưa vào. Lượng thức ăn tối thiểu cầnthiết cho Artemia phát triển đã được xác định là 10 mg C/lít,ở liều lượng này tăng trọng của Artemia từ 2.3 μg/cá thểnaupllii (mới nở) đã tăng lên 195±7.03 μg/cá thể. Đối với cácnghiệm thức được cho ăn với liều lượng thấp là 7; 5; 3 mgC/lít thì sau 11 ngày nuôi trọng lượng Artemia chỉ đạt134±3.41, 88±3.53 và 29±3.09 μg/cá thể, theo thứ tự. Còn ởliều lượng cho ăn thấp nhất là 0.2 mg C/lít thì sau 11 ngàynuôi trọng lượng Artemia giảm xuống từ 14-18 ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: