Bài giảng "Bệnh tuyến giáp" cung cấp các kiến thức giúp cho sinh viên có thể trình bày được mô học và sự tổng hợp hormon giáp, mô tả và phân tích được bệnh bướu giáp đơn thuần và bệnh bướu giáp cường giáp, mô tả được đặc điểm vi thể của bướu giáp đơn thuần và bệnh Basedow. Mời các bạn cùn tham khảo nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng Bệnh tuyến giáp 95 BỆNH TUYẾN GIÁPMục tiêu học tập1- Trình bày được mô học và sự tổng hợp hormon giáp2 - Mô tả và phân tích được bệnh bướu giáp đơn thuần và bệnh bướu giáp cường giáp3 - Mô tả được đặc điểm vi thể của bướu giáp đơn thuần và bệnh BasedowI. ĐẠI CƯƠNGBệnh lý tuyến giáp đứng hàng đầu trong các bệnh về nội tiết. Theo ước tính, trên thế giới cókhoảng 200 triệu người mang tuyến giáp to, cổ phình to rất dễ nhận biết và ở Việt Nam cũngchiếm xấp xỉ 2 triệu người (Nguyễn Vượng và CS).Là bệnh nằm ngay trước cổ nên nhân dân quen gọi là “bướu cổ”. Đa số bệnh bướu cổ thuộcloại bình năng giáp (bướu cổ đơn thuần, bướu cổ địa phương - goitre simple) và bướu cổ ưunăng giáp (bệnh Basedow-bệnh Grave). Ngoài ra còn gặp một số bệnh lý của tuyến giáp nhưbướu giáp nhược năng, viêm tuyến giáp, u tuyến và ung thư tuyến giáp.II. NHẮC LẠI MÔ HỌC VÀ QUÁ TRÌNH TỒNG HỢP HORMONE GIÁP1. Về mô học- Tuyến giáp gồm 2 thùy nằm ở đoạn trên của cổ và dưới thanh quản. Trọng lượng khoảng30-40 gram, được phủ bên ngoài bởi một lớp vỏ xơ và ngăn cách với nhu mô giáp bên trongbởi mô liên kết thưa (do vậy rất dễ bóc tách khi phẫu thuật).- Tuyến giáp là tuyến nội tiết kiểu túi gồm những nang tuyến được bao quanh bởi mạng lướimao mạch phong phú. Lòng nang chứa một chất keo mà bản chất là protein, đó làthyroglobulin có trọng lượng phân tử 660.000, do các tế bào lót quanh nang của tuyến giáptạo ra. Các tế bào nang tạo nên biểu mô tuyến của tuyến giáp. Chúng có hình vuông hoặc dẹtkhi nghỉ hoạt động hoặc hình trụ khi đang hoạt động chế tiết. Hình 1: Cấu tạo vi thể tuyến giáp và cận giáp 95 962. Quá trình tổng hợp hormone giápHormone giáp do tế bào tuyến giáp tạo ra là thyroxin (T4 , Tetra- iodothyronin) bao gồm 2 cơchất chính là iod và acid amin là tyrozin. Thành phần iod có nhiều nhất ở rong tảo và động vậtở biển, lượng iod này khi ăn vào đều bị khử thành các iodua (K, Na) và được ruột hấp thụ đểđưa đến tuyến giáp.Sự thu nhập iod tại tuyến giáp dễ bị ngăn cản bởi các anion thiocyanate (TCN) và Peclorat(ClO4). Do vậy, ăn thức ăn cải bắp chứa nhiều thiocyanate dễ gây bướu cổ. Ngược lại, sự gắniod được kích thích bởi TSH (Thyroid stimulating hormon) của tuyến yên.Giai đoạn tiếp theo là oxy hóa thành các iod hoạt hóa (nhờ xúc tác bởi peroxydaza, TSH). Sauđo,ï gắn iod đã được hoạt hóa vào các vị trí nhân vòng của tyrozin để tổng hợp tạo nên T3 vàT4. I I I IO O CH2 CH COOH O O CH2 CH COOH NH2 I NH2 I I 3,5,3/ Tri iodothyronin (T3) 3,5,3/,5/ Tetra iodothyronin (T4)T3 và T4 chính là các hormone giáp, sau khi tổng hợp sẽ được đưa vào lòng nang và gắn vớithyroglobulin dưới dạng dự trữ.Khi cơ thể cần sử dụng chúng sẽ nhờ vào men thủy phân (cathepsin, TSH) để tách T3, T4 ravà được vận chuyển qua màng tế bào để đưa vào máu.III. MỘT SỐ BỆNH TUYẾN GIÁP THƯỜNG GẶP1. Bướu cổ đơn thuần - Đây là loại bệnh thường gặp nhất, đặc biệt là nữ giới. Bệnh nhân không có các rối loạnchức năng tuyến giáp (do vậy còn gọi là bướu cổ đơn thuần). - Có 3 nhóm nguyên nhân chính gây bệnh:+ Thường do thiếu iod trong thực phẩm, đặc biệt là những dân cư sống ở vùng núi cao (khi đóbệnh còn có tên gọi là bướu cổ địa phương).+ Do rối loạn thần kinh nội tiết ở trẻ gái dậy thì, phụ nữ mang thai và tuổi mãn kinh.+ Do dùng quá nhiều thực phẩm có chứa thyocyanate (bắp cải, củ cải, su hào) và những chấtcó tác dụng chống nội tiết tố tuyến giáp hoặc do bệnh nhân dùng thuốc có chứa thyocyanate,salicylate, thiouracil.Có 3 loại bướu giáp đơn thuần:1.1. Bướu giáp lan tỏaĐây là giai đoạn đầu của bướu giáp đơn thuần (từ vài tháng đến vài năm). Tuyến giáp phảnứng (do thiếu iod) bởi sự kích thích của TSH, thể hiện bằng sự vừa quá sản (tăng số lượng cácnang tuyến) vừa phì đại (tăng thể tích các nang). Chính sự quá sản và phì đại này làm chotuyến giáp to ra đều và lan tỏa cả 2 bên, có khi tuyến giáp nặng 1000gram, song nhìn chunghình thái của tổn thương vẫn thuần nhất, mật độ mềm, diện cắt nhầy, bóng, do có nhiều chấtkeo (do vậy còn gọi là bướu giáp keo). Hoặc mật độ chắc, diện cắt không nhầy và giống môgiáp bình thường (nên gọi là bướu giáp nhu mô). 96 97Về vi thể, cấu trúc tuyến giáp gồm những túi tuyến giãn rộng, lòng chứa nhiều chất keo đặc,bên ngoài được lót bởi các tế bào biểu mô vuông hoặc dẹt. Hinh 2-3: Tổn thương vi thể của bướu keo tuyến giáp1.2. Bướu giáp hòn (cục, nhân) Bệnh có thể gặp dưới dạng lâm sàng là một cục, nhưng phần lớn thường gặp là thểì nhiềucục. Đây là thể bệnh biểu hiện giai đoạn sau của bướu giáp đơn thuần. Các tổn thương quá sản và phì đại nang giáp ở giai đoạn đầu dần dần đi kèm với hiện tượngthoái hóa, xen kẽ là sự tái tạo, phì đại làm cho tổn thương vi thể thường không thuần nhất màtrở nên đa dạng. Bên cạnh các nang tuyến nhỏ tái tạo với các biểu mô quá sản lại thấy xuấthiện nhiều nang tuyến dãn lớn chứa đầy chất keo làm cho mô tuyến giáp có nhiều cục.Mô đệm liên kết bao quanh các nang giáp cũng biến đổi, nhiều mao mạch không đều, lòngmao mạch hẹp, dẫn đến thiếu máu cục bộ, có khi có hiện tượng chảy máu và vôi hóa. Chínhsự chảy máu vào mô kẽ tạo nên các u nang giả chảy máu và không có biểu mô bao quanhnang mà chỉ có một lớp mỏng sợi tạo keo. Bệnh kéo dài gồm nhiều ...