Thông tin tài liệu:
Năng lượng dầu mỏ và khí là tài nguyên hóa thạch, là năng lượng không tái tạo (khái niệm năng lượng tái tạo và năng lượng không tái tạo). Dầu mỏ đã được sử dụng cách đây 4.000 năm để xây các bức tường của Babylon. Vào thế kỷ thứ tư, người Trung Quốc đã từng khoan những giếng sâu 200m và khai thác dầu thông qua những ống tre.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài giảng: Hóa học dầu mỏ - TS. Nguyễn Thị Phương Phong
HÓA HỌC DẦU MỎ
PETROCHEMISTRY
CHEMISTRY OF PETROLEUM
TS. Nguyễn Thị Phương Phong
Chương 1. Dầu mỏ và khí (4 tiết)
1.1.Nguồn gốc dầu mỏ và khí hydrocacbon trong
thiên nhiên
1.2. Thành phần hóa học của dầu mỏ và khí
1.3. Phân loại dầu mỏ và khí
1.4. Các đặc trưng hoá lý và sự đánh giá chất
lượng dầu mỏ.
Chương 2.Xúc tác cho quá trình chế biến dầu mỏ
và khí (10 tiết)
2.1. Quá trình Cracking xúc tác
2.2. Quá trình Reforming xúc tác.
2.3. Quá trình đồng phân hoá.
2.4. Quá trình dehydro hoá
2.5. Quá trình oxi hoá
2.6. Các quá trình khác
Chương 3. Các sản phẩm từ qúa trình chế
biến dầu mỏ và khí (8 tiết)
3.1.Các sản phẩm năng lượng
3.2.Các sản phẩm phi năng lượng
3.3.Các sản phẩm hoá học
Chương 4. Dầu khí ở Việt Nam (8 tiết)
4.1. Lịch sử hình thành và phát triển Công nghiệp dầu
khí tại Việt Nam
4.2. Sản lượng và tiềm năng khai thác dầu khí ở Việt
Nam
4.3. Đặc điểm dầu thô và khí hydrocacbon tại Việt Nam
4.4.Nhu cầu và thị trường các sản phẩm dầu khí
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chemistry of Petrochemical Processes - Sami Matar
2. Dầu khí và Dầu khí ở Việt Nam – Trần Mạnh Trí (1996)
2. Hóa học dầu mỏ và khí – Đinh Thị Ngọ (2002)
3. Giáo trình Xúc tác dị thể - Hồ Sĩ Thoảng (2009)
4. Năng lượng cho thế kỷ 21- Những thách thức và triển vọng – Hồ Sĩ Thoảng
Trần Mạnh Trí (2009)
Năng lượng dầu mỏ và khí là tài nguyên hóa thạch, là
năng lượng không tái tạo (khái niệm năng lượng tái tạo
và năng lượng không tái tạo).
Dầu mỏ đã được sử dụng cách đây 4.000 năm để xây
các bức tường của Babylon.
Vào thế kỷ thứ tư, người Trung Quốc đã từng khoan
những giếng sâu 200m và khai thác dầu thông qua
những ống tre.
1848 đã có những ống khoan công nghiệp đầu tiên khai
thác dầu ở gần Baku (Nga)
Dầu mỏ được khai thác ở Bắc Mỹ và Châu Âu ở độ sâu
40-50m dưới mặt đất.
Từ năm 1859 dầu bắt đầu được khai thác ở Hoa Kỳ,
sản phẩm chủ yếu là dầu mỏ dùng để thắp sáng.
Đến đầu thế kỷ 20, lượng dầu khai thác trên toàn thế
giới là vài chục tấn.
Công nghiệp dầu mỏ phát triển mạnh mẽ khi các
phương tiện xe hơi và máy bay phát triển.
Hiện nay công nghiệp dầu mỏ đã phát triển đến mức độ
các sản phẩm dầu khí chiếm 60% năng lượng toàn
cầu
Về bản chất hóa học, sự hình thành dầu và khí giống
như sự hình thành than, có nguồn gốc từ xác động vật
và thực vật và phải trải qua hàng triệu năm trong điều
kiện nhiệt độ cao và áp suất cao.
Khác với than có nguồn gốc là xác động vật và thực vật
trên đất liền, nguồn gốc của dầu và khí chủ yếu là xác
các động vật và thực vật phiêu linh lắng xuống đáy đại
dương.
Dầu và khí ở dạng lỏng và khí nên sau khi hình thành
phải tìm những chổ trú ẩn được gọi là “bẫy dầu”
Nguồn gốc vô cơ
Cuối thế kỷ 19 nhà hóa học người Nga
Dmitri Ivanovich Mendeleev đã đưa ra lý thuyết vô cơ
giải thích sự hình thành của dầu mỏ.
Theo lý thuyết này dầu mỏ phát sinh từ phản ứng hóa
học giữa cacbua kim loại với nước tại nhiệt độ cao ở
sâu trong lòng trái đất tạo thành các hidrocacbon và sau
đó bị đẩy lên trên. Theo lý thuyết này dầu mỏ phát sinh
từ phản ứng hóa học giữa cacbua kim loại với nước tại
nhiệt độ cao ở sâu trong lòng trái đất tạo thành các
hidrocacbon và sau đó bị đẩy lên trên.
Nguồn gốc vô cơ
Năm 1866, Berthelot đã tiến hành quá trình tổng hợp được
các hợp chất hydrocacbon thơm từ axtylen ở nhiệt độ cao
với sự có mặt của xúc tác.
Năm 1901, Sabatier và Sendereus tiến hành phản ứng hydro
hoá axetylen trên xúc tác Niken và Sắt ở nhiệt độ trong
khoảng 200 đến 300oC, đã thu được một loạt các
hydrocacbon tương ứng như thành phần của dầu mỏ.
Nguồn gốc vô cơ
Hàm lượng các hợp chất cacbua trong lòng đất thì
khá hạn chế trong khi đó thì dầu mỏ ngày càng tìm
được với số lượng rất lớn và hầu như có mặt khắp nơi
Các phản ứng tạo hợp chất thơm và các hợp chất có
thành phần tương tự như thành phần của dầu mỏ từ
CH4 và C2H2 đòi hỏi có nhiệt độ cao trong khi đó thực
tế nhiệt độ đạt được trong các mỏ dầu thì ít khi vượt
quá 150 đến 200oC
Nguồn gốc hữu cơ
Theo giả thiết này thì dầu mỏ được hình thành từ các
hợp chất có nguồn gốc hữu cơ, cụ thể là từ xác chết
của động thực vật và trải qua một quá trình biến
đổi phức tạp trong một thời gian dài (hàng chục đến
hàng trăm triệu măn) dưới tác động của nhiều yếu tố
khác nhau như vi khuẩn, nhiệt độ, áp suất và xúc tác có
sản trong lòng đất và đôi khi còn có sự tác động của
các bức xạ do sự phóng xạ ở trong lòng đất.
Nguồn gốc hữu cơ
Gồm 4 giai đoạn
Tích đọng các vật liệu hữu cơ ban đầu
Biến đổi các chất hữu cơ ban đầu thành dầu khí
Sự di cư của dầu - khí đến các bồn chứa thiên nhiên
Biến đổi tiếp tục trong bồn chứa tự nhiên.
Dầu và khí hydrocacbon trong thiên nhiên đều có
cùng một nguồn gốc. Chính vì vậy, nơi nào có dầu
cũng sẽ có khí và ngược lại. Tuy nhiên do quá trình
di cư có thể khác nhau, nên mặc dù chúng được
sinh ra ở một nơi chúng vẫn có thể cư trú ở những
nơi khác xa nhau. Vì vậy có thể gặp những “bẫy”
chứa khí nằm xa “ bẫy” chứa dầu.
Nguồn gốc hữu cơ
Tích đọng các vật liệu hữu cơ ban đầu
Thành phần các xác động thực vật chia làm:
*Các chất hữu cơ như cacbon hydrat (ko bền vững, dưới
tác dụng vi khuẩn tạo thành khí và các chất tan trong
nước)
*Các chất lipid (bao gồm các acid béo, nhựa, các HC cao
phân tử) khó bị phá hủy bởi vi khuẩn.
*Các chất albumin
Trong thành phần chất HC của xác động vật thì xác chất
lipid là bền vững nhất, ko bị phân hủy do đó được bảo
vệ nguyên vẹn khi lắng đọng nên là chất mẹ đẻ để biến
đổi về sau tạo thành dầu khí
Nguồn gốc hữu cơ
Biến đổi các chất hữu cơ ban đầu thành dầu khí
Các chất hữu cơ có trong trầm tích chịu nhiều biến đổi
h ...