Danh mục

Bài Giảng Hóa Kỹ Thuật 2 - Chương 5

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 417.33 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (12 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

HOÁ HỌC BẢO VỆ THỰC VẬT 5.1. Giới thiệu chung về hoá chất bảo vệ thực vật 5.1.1. Vai trò của hoá chất bảo vệ thực vật Hàng năm, ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới có rất nhiều sinh vật như côn trùng, sâu bọ, nấm, vi khuẩn, cỏ dại, thực vật ký sinh v.v… gây tác hại to lớn cho cây trồng và sản phẩm nông nghiệp. Do vậy, vấn đề bảo vệ thực vật rất được quan tâm. Trước đây, người ta thường dùng các thuốc thảo mộc, các thành phẩm có nguồng gốc vô...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bài Giảng Hóa Kỹ Thuật 2 - Chương 5 Chương 5 – Hoá học bảo vệ thực vật HOÁ HỌC BẢO VỆ THỰC VẬT CHƯƠNG 5 5.1. Giới thiệu chung về hoá chất bảo vệ thực vật 5.1.1. Vai trò của hoá chất bảo vệ thực vật Hàng năm, ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới có rất nhiều sinh vật như côn trùng, sâu bọ, nấm, vi khuẩn, cỏ dại, thực vật ký sinh v.v… gây tác hại to lớn cho cây trồng và sản phẩm nông nghiệp. Do vậy, vấn đề bảo vệ thực vật rất được quan tâm. Trước đây, người ta thường dùng các thuốc thảo mộc, các thành phẩm có nguồng gốc vô cơ, hữu cơ đã biết để diệt trừ sâu bệnh. Ngày nay, ngành hoá học đã cung cấp thêm những hợp chất hữu cơ tổng hợp có hiệu lực bảo vệ cây trồng cao. 5.1.2. Đặc điểm của hoá chất bảo vệ thực vật 1. Tính chất lý học của chất hoá học bảo vệ thực vật: - Tính làm ướt: là khả năng phủ kín thuốc ở bề mặt cây, lá bằng một lớp nhỏ dày đặc, do trong thuốc hoá học có chứa nhóm hoạt động hay “có cực”. - Tính dính: là khả năng giữ vững các phần tử chất độc vào đối tượng xử lý. Thuốc hoá học ở dạng bột mịn (đường kính hạt cỡ 0,01  0,06mm) thì có thể giữ lại lâu trên cây. 2. Quan hệ giữa cấu tạo hoá học và tính độc: - Khi chuyển hoá các hợp chất no thành không no thì tính độc của hợp chất được tăng lên vì những hợp chất không no có khả năng phản ứng hoá học khá nhạy. Ví dụ: axetylen (HC  CH) độc hơn êtylen (H2C = CH2) và ít độc nhất là êtan (H3C – CH3). - Tính độc của các chất cũng thay đổi khi thế nhóm này trong phân tử bằng nhóm khác. Ví dụ: dẫn xuất clo của benzen, naphtalen có tính độc cao hơn chúng 10  20 lần. - Tính độc thay đổi theo độ dài của mạch cacbon. Các axit béo có mạch cacbon dài 10  12 nguyên tử có tính độc cao hơn những axit hữu cơ mạch ngắn hơn. - Sự thay đổi trật tự sắp xếp của các nguyên tử trong phân tử (sự đồng phân hoá) cũng ảnh hưởng lớn đến sự biến đổi tính độc. Chẳng hạn, hexacloran (6.6.6) có 8 đồng phân không gian, trong đó đồng phân  có tính độc mạnh nhất. 3. Tác động của chất độc trong nông nghiệp: Chất độc là những chất, khi xâ m nhập vào cơ thể với lượng nhỏ, gây nên ngộ độc hoặc làm cho cơ thể chết. Khái niệm này chỉ là quy ước, bởi vì cùng một chất 61 Hoá kỹ thuật – Phần hai: Hoá nông học Chương 5 – Hoá học bảo vệ thực vật mà điều kiện và phương pháp ứng dụng khác nhau có thể là chất độc hoặc không độc. Có chất độc với loại sâu này mà không độc với loại sâu khác. Tính độc là sức đầu độc cơ thể gây nên bởi chất độc. Còn độ độc là hiệu lực độc gây nên bởi một lượng nhất định của chất độc khi nó xâm nhập vào cơ thể. Độ độc của một chất độc được xác định bằng liều gây chết (dosis letalis,viết tắt là DL). a) Tác động của chất độc đến sâu bọ, nấm bệnh: Khi xâm nhập vào cơ thể sâu bọ, nấm bệnh, chất độc có thể gây ra tác động cục bộ hay toàn bộ cơ thể. Tác động cục bộ hay còn gọi là tác động chọn lọc là ảnh hưởng của chất độc đến các cơ quan, những hệ thống nhất định. Nếu chất động ảnh hưởng đến tất cả các cơ quan, tế bào thì được gọi là tác động toàn bộ. Thông thường, các chất độc ảnh hưởng chủ yếu đến một hệ thống nào đó. Chẳng hạn, ở nồng độ thấp, chất độc tác động đến thần kinh hệ. Khi sử dụng ở nồng độ cao, chất độc có thể gây tác động đến tất cả tế bào các bộ phận và có khi đến tất cả các chức năng của cơ quan. Do vậy, khi pha chế sử dụng thuốc hoá học bảo vệ cây trồng cần phải đảm bảo đúng nồng độ, liều lượng gây chết, vì nếu dùng liều lượng thuốc thấp sẽ gây nên tác động miễn dịch di truyền đối với thuốc đã dùng và nó sẽ trở nên mất hiệu lực. b) Tác động của chất độc đến thực vật: Chất độc hoá học dùng để trừ sâu bệnh, trừ một số ngoại lệ, có thể gây tác động có hại cho thực vật. Chẳng hạn, khi sử dụng chất độc quá nồng độ, liều lượng quy định có thể gây hại cho lá, hoa, quả, chồi, cành, vỏ và rễ cây bị tổn thương. Ngoài tác động có hại, một số chất hoá học không những bảo vệ cây trồng mà còn có tác động kích thích cây phát triển, sản lượng nông phẩm tăng. Do vậy, khi sử dụng chất hoá học cần đảm bảo các biện pháp tránh tác động có hại cho cây trồng. 4. Thành phần thuốc trừ sâu bệnh và phương pháp sử dụng: Thuốc trừ sâu bệnh có các thành phần sau: - Chất độc: là thành phần chính của thuốc trừ dịch hại. - Các chất phù trợ: là những chất được đưa thêm vào thành phần nhằm nâng cao hiệu lực của các chất độc. Vai trò của loại chất này là cải thiện tính chất lí học của các chất hoạt động. Tuỳ theo tính chất của thành phẩm, các chất phù trợ có thể có những vai trò: + Tăng tính bền vững của các huyền phù và nhũ tương của dịch thuốc. + Tăng tính dính của chất độc. + Pha loãng chất hoạt động hoặc dùng làm chất độn. ...

Tài liệu được xem nhiều: