Danh mục

Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 122.40 KB      Lượt xem: 23      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Khi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, chúng ra bàn về đặc trưng cấu trúc ngôn ngữ. Còn khi nói về bản chất xã hội của ngôn ngữ là chúng ta nói về các mặt chức năng khác nhau của ngôn ngữ trong xã hội. Như là một sự kiện quan trọng của đời sống nhân loại, ngôn ngữ mang trong mình nó cả những đặc điểm của cấu trúc lẫn chức năng. Bởi vì con người là những thực thể vật chất rất cụ thể cho nên những gì đối với con người là quen thuộc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ Bản chất tín hiệu của ngôn ngữKhi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, chúng ra bàn về đặc trưng cấu trúcngôn ngữ. Còn khi nói về bản chất xã hội của ngôn ngữ là chúng ta nói về các mặtchức năng khác nhau của ngôn ngữ trong xã hội. Như là một sự kiện quan trọngcủa đời sống nhân loại, ngôn ngữ mang trong mình nó cả những đặc điểm của cấutrúc lẫn chức năng. Bởi vì con người là những thực thể vật chất rất cụ thể cho n ên những gì đối vớicon người là quen thuộc thì cũng phải được vật chất hoá như vậy. Chính vì vậy,khi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, người ta thường nói về hình thức tínhiệu, đó chính là phương tiện vật chất rất cụ thể mà trong ý thức con người, ngườita có thể cảm nhận được thông qua các giác quan cụ thể của mình. Các tín hiệu ngôn ngữ đã tác động trực tiếp đến con người thông qua hai giácquan quan trọng nhất là thính giác và thị giác. Trong hai kênh để truyền tín hiệuđó thì kênh thông quan thính giác là kênh cổ xưa hơn rất nhiều (trong vòng 5000năm trở lại đây mới có chữ viết). Điều này có thể giải thích như J. Lyons đã từnggiải thích: - Trong quá trình lao động, khi đôi tay phải làm việc, đôi chân phải trụ thì chỉcó mắt và tai là rỗi. Tuy nhiên, trong hai cơ quan ấy thì mắt bận rộn hơn do phảithâu nhận hơn 90% thông tin cuộc sống. Chính vì thế, một cách tiêu cực, có thểsuy ra rằng tai (thính giác) là có khả năng được sử dụng nhiều hơn cho thông tinvề lời nói. - Mặt khác, khi sử dụng thị giác thì đương nhiên sẽ liên quan đến vấn đề ánhsáng trong khi những thông tin cần phải trao đổi giữa con người với nhau thì lạibất kể tối sáng. - Lí do thứ 3 mà loài người chọn âm thanh là do điều kiện lao động của ngườinguyên thuỷ. Môi trường làm việc lúc bấy giờ là các khu rừng sâu có nhiều câycối che lấp. Với điều kiện như vậy, thị giác rất khó làm việc [1]. Chính vì vậy, loàingười ngay từ cổ xưa đã chọn kênh thính giác làm kênh thông tin chủ yếu để giaotiếp. Engels đã từng nói: “trước hết là lao động và sau đó đồng thời với lao động làngôn ngữ đã biến bầy vượn thành loài người”. Sự khẳng định này của Engels cũngđồng thời nhấn mạnh rằng: ngôn ngữ nảy sinh từ lao động và chính nhờ lao động,con người đã tìm ra một kênh tối ưu nhất cho việc truyền tải các thông tin quaphương tiện âm thanh. Bên cạnh kênh âm thanh, loài người, sau khi đã phát kiến ra chữ viết, còn sửdụng kênh thị giác cho việc truyền tải các thông tin trong giao tiếp giữa người vớingười. Tuy nhiên, do hạn chế về phương diện truyền, điều kiện chọn lựa ngườitruyền nên phương tiện thông qua văn tự, chữ viết vẫn chỉ là một dạng phươngtiện phái sinh trên một phương tiện vạn năng hơn là ngôn ngữ có âm thanh. Với mỗi một tín hiệu ngôn ngữ, theo nguyên lí chung của việc thành lập mộttín hiệu, bao giờ cũng phải có hai mặt: Đó là mặt biểu hiện (hình thức tín hiệu) vàmặt được biểu hiện (nội dung tín hiệu). Mặt h ình thức của tín hiệu là những dạngâm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã thiết lập lên mã cụthể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn ngữ. Còn mặtnội dung (cái được biểu hiện) là những thông tin, những thông điệp về nhữngmảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những dấuhiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại. Như vậy, để trở thành một tín hiệu, bất kì một hiện tượng ngôn ngữ nào đã xuấthiện trong giao tiếp của loài người cũng phải bao gồm 2 mặt khác nhau là mặt biểuhiện và mặt được biểu hiện. Mặt biểu hiện làm nhiệm vụ trung chuyển những ýnghĩ, tình cảm, xúc cảm, nhu cầu khác nhau của người nói tới được cơ quan thụcảm của người nghe. Nếu không có cái biểu hiện thì quá trình giao tiếp giữa ngườinói và người nghe sẽ bị hoàn toàn cắt đứt. Lúc đó, người ta gọi là ngôn ngữ khônghành chức. Mối liên hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là mối liên hệ rất đặc trưngcủa ngôn ngữ. Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: mỗi một cái biểu hiện luôn chỉcó một cái được biểu hiện tương ứng. Khi mối liên hệ 1–1 này bị cắt đứt thì cácquá trình giao tiếp sẽ bị ảnh hưởng hoặc không thể thực hiện được. Do tính chất vàsố lượng của các từ trong một ngôn ngữ là vô cùng lớn nên ngôn ngữ học cấu trúcluận cho rằng mối liên hệ 1–1 này phải được coi là võ đoán với nhau và phải đượcquy ước. Cơ chế tạo nên quan hệ 1–1 được hình dung theo tạo sinh luận như sau: Trong mỗi ngôn ngữ đều có một bộ hay một tập tín hiệu gọi là bộ từvựng (lexicon) của một ngôn ngữ. Nhưng để một bộ từ vựng có thể hành chức còncần thêm các luật ngữ pháp (grammartical rules) là quy tắc nối kết các hạng tử(items) có trong bộ từ vựng theo những quy tắc nhằm bộc lộ những thông điệp córiêng trong một ngôn ngữ. (Như vậy, khái niệm ngữ pháp của tạo sinh luận là rộnghơn rất nhiều so với quan niệm thông thường của chúng ta). ...

Tài liệu được xem nhiều: