Danh mục

Bản lề của 3 châu Á-Phi-Âu 2

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 129.50 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bản lề của 3 châu Á-Phi-Âu 2Lưỡi liềm phì nhiêu Miền này sở dĩ phì nhiêu nhờ nằm trên bờ Địa Trung Hải và trên lưu vực hai con sông Tigre và Euphrate. Nhưng thực sự phì nhiêu thì chỉ có ba xứ Liban, Syrie, Iraq, còn ba xứ kia: Palestine, Jordani, Koweit đất đai không trồng trọt được bao nhiêu. Palestine một nửa là sa mạc – sa mạc Neguev. Trước khi quốc gia Israel thành lập, sa mạc đó gần như bỏ hoang. Trồng trọt được chỉ có một dải hẹp ở ven Địa Trung Hải và miền...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bản lề của 3 châu Á-Phi-Âu 2 Bản lề của 3 châu Á-Phi-Âu 2 Lưỡi liềm phì nhiêu Miền này sở dĩ phì nhiêu nhờ nằm trên bờ Địa Trung Hải và trên lưu vực haicon sông Tigre và Euphrate. Nhưng thực sự phì nhiêu thì chỉ có ba xứ Liban,Syrie, Iraq, còn ba xứ kia: Palestine, Jordani, Koweit đất đai không trồng trọt đượcbao nhiêu. Palestine một nửa là sa mạc – sa mạc Neguev. Trước khi quốc gia Israel thànhlập, sa mạc đó gần như bỏ hoang. Trồng trọt được chỉ có một dải hẹp ở ven ĐịaTrung Hải và miền Thượng Galilée ở phía Bắc, giáp Syrie. Từ 1949, xứ Palestine chia đôi, phần lớn th ành quốc gia Israel (dân số hiện nayvào khoảng 1.700.000 người, kinh đô là Ta Aviv), một phần nhỏ ở bờ phía tâysông Jourdain sáp nhập vào với xứ Transjordanie, thành xứ Jordani. Thánh địaJérusalem trước chiến tranh Israel - Ả Rập năm 1967, thuộc chung về Israel vàJordani, hiện nay bị quân đội Israel chiếm[1] Jordani là một vương quốc nghèo. Khi còn là Transjordanie diện tích khoảng42.000 cây số vuông, dân số khoảng nửa triệu. Ngày nay dân số được triệu rưởi,sống bằng nghề nông. Chỉ có mỗi miền ở hai bờ sông Jourdain là trồng trọt đượclúa, cây ăn trái, rau, còn lại là sa mạc, đồi hoang hoặc núi với ít bãi cỏ nuôi bò. Xứđó là xứ độc nhất trên bán đảo không giáp biển, chỉ có mỗi một cửa ở Akaba đểtrông ra Hồng Hải. Kinh đô là Amman, Quốc vương hiện nay là Hussein, thuộcgiòng Hachémite, chung một ông tổ với cố quốc vương Faycal II của Iraq. Liban là xứ nhỏ nhất, 10.500 cây số vuông, dân số hiện nay khoảng hai triệu.Kinh đô là Beyrouth. Có hai dãy núi song song nhau, dãy Liban gần bờ biển và dãy Anti-Liban ở phíatrong, giữa hai dãy đó là một thung lũng. Khí hậu mát mẻ. trồng được nhiều loạicây ăn trái, rau, lúa. Phong cảnh rất đẹp, có người đã gọi là một giỏ hoa trên bờĐịa Trung Hải. Kỹ nghệ chính là xưởng lọc dầu vì dầu lửa ở Ả Rập Saudi do ống dẫn dầu chảytới Beyrouth để lọc rồi đưa xuống tàu chở đi bán ở châu Âu. Mức sống Liban caonhất ở Tây Á; năm 1957 lợi tức trung bình mỗi đầu người mỗi năm vào khoảng300 Mỹ kim, gần bằng lợi tức trung bình của người Ý, gấp đôi lợi tức trung bìnhcủa Ai Cập và gấp bốn của Ấn Độ. Xứ đó còn một đặc điểm nữa là Âu hóa hơn cả các xứ khác trên bán đảo. Trongkhông khí trong trẻo phảng phất hương hồng, hương cam, tiếng chuông giáođường Ki Tô giáo cùng ngân lên với tiếng cầu nguyện trong các giáo đường Hồigiáo ở bên cạnh. Những gác chuông cao và nhọn cùng đưa lên trời với những nócvòm, làm cho du khách tự hỏi không biết mình ở trong một xứ theo đạo Ki Tô màcó bề ngoài Ả Rập hay là một xứ Ả Rập mà có bề ngoài Ki Tô giáo. Hai tôn giáođó đã có hồi không dung nhau. Năm 1860 một đám người Druze từ trên núi đổxuống và trong một đêm tàn phá Beyrouth, chém giết trên hai ngàn rưỡi tín đồ KiTô giáo. Nhưng bây giờ họ sống với nhau, ráng bao dung nhau. Cả hai bên đềuchia rẽ. Phía theo Hồi giáo gồm khoảng 600.000 người mà có ba phái; phía Ki Tôgiáo có tới năm phái: Công giáo, Tin lành, Ki Tô giáo chính thống Hy Lạp,Annénien, Maronite. Hiến pháp của nước Cộng hòa Liban phản ánh tình trạng tạp đa về chủng tộc vàtôn giáo đó. Liban có một Quốc hội mà số ghế chia cho các tôn giáo theo tỷ số tínđồ. Năm 1957 Quốc hội dành 20 ghế cho các người Maronite theo Ki Tô giáo, 7ghế cho các người Hy Lạp theo Ki Tô giáo chính thống, 26 ghế cho tín đồ Hồigiáo, và khoảng 10 ghế nữa cho các giáo phái nhỏ khác, mỗi phái được 4, 3 hoặc 1ghế. Như vậy Liban có một chính phủ nhưng khó thành một quốc gia như Ai Cậphoặc Iraq được. Đất đã hẹp, dân số đã ít mà lại rất chia rẽ, nên nội các nào cũngchỉ lo giữ một sự thăng bằng tạm. Sự thăng bằng đó rất khó giữ vì trong nước có ba phe: phe thân Tây phương,phe trung lập và phe thống nhất Ả Rập, mà nguy nhất là sự chống đối nhau vềchính kiến cả ba phe đó rất dễ biến thành những xung đột tôn giáo. Cho nên vịTổng thống nào cũng chỉ theo một chính sách hòa giải, giải quyết những việc lặtvặt, chứ không bao giờ làm thứ “đại chính trị” như Nasser. Dân chúng cũng chỉđòi hỏi ở các vị đó như vậy thôi, để được yên ổn buôn bán. Thương mại rất phát đạt. Người Liban nào cũng là con buôn, thứ con buôntrung gian. Beyrouth là một thương cảng từa tựa như Hương Cảng. Hàng hóa từÂu muốn đem vào SYRIE, Iraq, Ả Rập Saudi đều phải qua đó, mà dầu lửa ở Iraq,Ả Rập Saudi muốn đưa qua châu Âu cũng phải qua đó. Cho tới 1957, nhờ Tổngthống Naccache (tín đồ Ki Tô giáo) theo chính sách trung lập h ơi thân Tây phươngnên Liban tạm được yên ổn; nhưng người kế vị ông, Tổng thống Chamoun (cũngtheo Ki Tô giáo), thấy ảnh hưởng của Ai Cập lớn quá, muốn nhờ Mỹ can thiệp,suýt gây biến động trong nước. Tướng Gouad Chehab lên thay, trở về đường lốitrung lập. Trước Thế chiến thứ nhì Liban là một xứ ủy trị của Pháp (từ 1920), năm 1944thành một nước độc lập. Ảnh hưởng của Pháp rất mạnh. Từ thời Trung cổ, Thập ...

Tài liệu được xem nhiều: