Danh mục

Bàn về chứng từ gốc trong giao dịch thư tín dụng

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 235.08 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong hoạt động tín dụng chứng từ, việc xác định một chứng từ là bản gốc (original) hay bản sao (copy) là một vấn đề hết sức quan trọng. Chính vì vậy mà trong các văn bản liên quan đến tín dụng chứng từ như UCP, ISPB,... đều có những điều khoản rõ ràng quy định việc xác định tính chất gốc của một loại chứng từ. Tuy vậy, trong thực tế giao dịch thư tín dụng, các quy định này trong nhiều trường hợp đã từng bị cáo buộc là kẻ tội đồ gây tranh cãi và kiện tụng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bàn về chứng từ gốc trong giao dịch thư tín dụng Bàn về chứng từ gốc trong giao dịch thư tín dụngTrong hoạt động tín dụng chứng từ, việc xác định một chứng từ là bản gốc(original) hay bản sao (copy) là một vấn đề hết sức quan trọng. Chính vì vậy màtrong các văn bản liên quan đến tín dụng chứng từ như UCP, ISPB,... đều cónhững điều khoản rõ ràng quy định việc xác định tính chất gốc của một loại chứngtừ.Tuy vậy, trong thực tế giao dịch thư tín dụng, các quy định này trong nhiều trườnghợp đã từng bị cáo buộc là kẻ tội đồ gây tranh cãi và kiện tụng nhiều nhất. Trongphạm vi bài viết, sẽ điểm lại các quy định về chứng từ gốc tại UCP 500, ISBP vàgần đây nhất là UCP 600 với mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm, các tìnhhuống thực tế với những người mà công việc hàng ngày gắn liền với các giao dịchthư tín dụng.Quy định về chứng từ gốc tại điều 20(b) UCP 500Điều 20(b) UCP 500 quy định về chứng từ gốc như sau: “Trừ phi LC quy địnhkhác, các ngân hàng cũng sẽ chấp nhận là chứng từ gốc (đối với) chứng từ đượctạo lập hoặc thể hiện là đã được tạo lập:(i) Bằng hệ thống sao chụp, tự động hoặc được vi tính hóa;(ii) Là các bản sao bằng giấy than;Miễn là chứng từ đó được ghi chú là bản gốc và thể hiện được ký ở nơi cần thiết.Chứng từ có thể ký bằng chữ viết tay, bằng chữ ký qua fax, bằng chữ ký đục lỗ,bằng con dấu, bằng biểu tượng, hoặc bằng bất cứ phương pháp xác thực bằngđiện tử hay cơ khí khác”.Quy định về chứng từ gốc như vậy tưởng là đã quá rõ ràng cho các bên thực hànhLC. Nhưng trên thực tế đã có không ít tranh chấp liên quan đến vấn đề chứng từgốc xảy ra. Hai vụ tranh chấp dưới đây đã được tranh luận rất nhiều trên các diễnđàn của cộng đồng những người thực hành thư tín dụng trên toàn thế giới.Những phán quyết trái ngược của các tòa án khi xác định tính chất gốc củachứng từ.Vụ tranh chấp 1: Glencore International AG v Bank of China, [1996]Trong trường hợp này, Tòa phúc thẩm của Anh được đề nghị xem xét một hợpđồng mua bán nhôm thỏi giữa người bán Thụy Sỹ là Glencore International AG vàngười mua Trung Quốc là Shan He Trade Co.,Ltd thông qua phương thức tín dụngchứng từ. Ngân hàng phục vụ người bán là Vereinsbank, ngân hàng phục vụ ngườimua là Bank of China. Khi bộ chứng từ xuất trình đòi tiền người mua, Bank ofChina đã đưa ra thông báo từ chối bộ chứng từ với lý do: “the buyer’s certificateof receipt is not an original - chứng nhận của việc nhận được không phải là bảngốc”. Trên thực tế, chứng từ của công ty Glencore xuất trình là một bản sao từmáy photocopy có chữ ký tươi của đại diện công ty. Khi công ty Glencore khởikiện, tòa án phúc thẩm ở Anh lập luận rằng bất kỳ chứng từ, dù thực tế có phải làbản gốc hay không, được tạo lập bằng bất cứ phương pháp nào nêu ở điều 20(b)đều phải được ghi chú là bản gốc để được chấp nhận là chứng từ gốc. Ngay cả cácchứng từ không phải là bản sao của một chứng từ khác cũng bị từ chối nếu khôngđược đóng dấu bản gốc và nếu được tạo được tạo lập bằng một trong những cáchthức nêu tại điều 20(b). Chính vì thế, chữ ký gốc chỉ là một cách để xác thựcchứng từ. Nếu không ghi chú là bản gốc thì đây chỉ là một bản sao được xác thựcvà điều 20(b) không xem chữ ký là sự thay thế cho việc ghi chú là bản gốc, mà chỉlà một yêu cầu bổ sung cho một số trường hợp.Với cách giải thích này, Tòa phúc thẩm Anh đã hậu thuẫn cho Bank of China từchối chứng từ với lý do rằng chứng từ không được ghi chú là bản gốc, mặc dù thựctế các chứng từ khác cho thấy chứng từ đó thể hiện là bản gốc và được ngườihưởng lợi ký bằng mực xanh.Vụ tranh chấp 2: Kredietbank Antwerp v Midland Bank plc, [1999]Với vụ tranh chấp này, Midland Bank PLC, theo yêu cầu của một công ty có tên làKaraganda Limited, đã mở một thư tín dụng tuân theo UCP 500 cho người hưởnglà công ty Thụy Điển có tên là Micheal Goldstein. Việc thanh toán thư tín dụngnày dựa trên bộ chứng từ trong đó có yêu cầu bản gốc của bảo hiểm đơn. MidlandBank PLC từ chối bộ chứng từ với lý do: “Insurance policy is not marked asoriginal - Bảo hiểm đơn không được ghi chú là bản gốc”. Lập luận của MidlandBank PLC đưa ra 3 lý do:- Bảo hiểm đơn được tạo lập bằng hệ thống sao chụp và được vi tính hóa;- Điều 20(b) của UCP 500 yêu cầu một chứng từ như vậy cần được ghi chú là bảngốc;- Bảo hiểm đơn khi xuất trình thì đã không ghi chú là bản gốc.Tuy nhiên, tòa án đã bác bỏ lập luận này của Midland Bank PLC với các lý do sauđây:- Bản gốc và bản thứ hai của bảo hiểm đơn đã được xuất trình. Mỗi trang của bảngốc thì được in trên giấy của công ty có logo và được đánh dấu bằng mực tươi.Bản gốc đã được ký bằng mực tươi.- Có 2 bản của bảo hiểm đơn được xuất trình. Bản thứ hai là một bản sao của bảngốc và đã được đóng dấu ‘duplicate’ và cũng được ký bằng mực tươi.- Bảo hiểm đơn xuất trình có một điều khoản chỉ ra rằng: “Bảo hiểm đơn này đượcphát hành một bản gốc và bản thứ hai, một trong hai bản đã được thực hiện, thìbản còn lại sẽ trở thành không c ...

Tài liệu được xem nhiều: