Danh mục

Báo cáo khoa học: NHỮNG KHÁC BIỆT CƠ BẢN TRONG SỬ DỤNG GIỚI TỪ ĐỊNH VỊ CHỈ CÁC QUAN HỆ KHÔNG GIAN TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT

Số trang: 9      Loại file: pdf      Dung lượng: 372.07 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 4,500 VND Tải xuống file đầy đủ (9 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Khi bàn đến nghĩa của giới từ định vị (GTĐV) dùng chỉ các quan hệ không gian động và tĩnh và những nhân tố ngữ dụng tác động đến sự chọn lựa GTĐV để sử dụng trong các diễn đạt không gian dựa trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, chúng ta thấy có nhiều sự khác biệt giữa hai thứ tiếng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Báo cáo khoa học: " NHỮNG KHÁC BIỆT CƠ BẢN TRONG SỬ DỤNG GIỚI TỪ ĐỊNH VỊ CHỈ CÁC QUAN HỆ KHÔNG GIAN TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT" TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010 NHỮNG KHÁC BIỆT CƠ BẢN TRONG SỬ DỤNG GIỚI TỪ ĐỊNH VỊ CHỈ CÁC QUAN HỆ KHÔNG GIAN TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT MAJOR DIFFERENCES IN THE USE OF ENGLISH AND VIETNAMESE LOCATIVE PREPOSITIONS DESCRIBING SPACIAL RELATIONS Trần Quang Hải Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Khi bàn đến nghĩa của giới từ định vị (GTĐV) dùng chỉ các quan hệ không gian động vàtĩnh và những nhân tố ngữ dụng tác động đến sự chọn lựa GTĐV để sử dụng trong các diễnđạt không gian dựa trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, chúng ta thấy có nhiều sự khác biệtgiữa hai thứ tiếng. Tuy nhiên, nếu nâng lên tầm khái quát thì chúng ta thấy rằng chỉ có một sốkhác biệt cơ bản. Bài viết này, dựa trên những kết quả rút ra được từ đề tài “Nghiên cứu giớitừ định vị theo hướng ngữ dụng (trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt)” của cùng tác giả, đãđề cập đến 5 khác biệt cơ bản giữa GTĐV tiếng Anh và tiếng Việt, cùng với 4 nguyên nhân cóthể tạo nên những khác biệt đó. ABSTRACT On discussing the meanings of locative prepositions which show the static and dynamicspatial relations as well as the pragmatic factors governing the choice of locative prepostionsbased on the data collected from English and Vietnamese, we discover that there seems to bemany differences between the two languages. However, on a generalized basis, thesedifferences can be condensed to become major categories. Following the findings anddiscussions from the doctoral dissertation entitled “An Investigation into Locative Prepositions inEnglish and Vietnamese: A Pragmatic Perspective” conducted by the same author, this articlementions the 5 major differences between locative prepositions in English and Vietnamesetogether with the 4 reasons that may cause these differences.1. Đặt vấn đề Trong quá trình dạy và học tiếng Anh, việc sử dụng giới từ là một trong nhữngkhó khăn đối với người học cũng như người dạy. Nhận thức rằng giới từ tiếng Anh quảlà một thách thức đối với người học, nhiều chuyên luận, sách dạy cũng như sách bài tậpchuyên về giới từ đã được biên soạn. Và trong quá trình giảng dạy giáo viên cũng dànhkhá nhiều thời gian cho việc giảng và luyện loại từ này. Nhưng qua kinh nghiệm giảngdạy của bản thân, qua trao đổi với đồng nghiệp và qua khảo sát, chúng tôi nhận thấyrằng tình hình trên chưa được cải thiện bao nhiêu. Phải chăng cái khó của giới từ tiếngAnh đối với người học Việt Nam không nằm ở cấu trúc của nó, cũng như không nằm ởvị trí, chức năng của nó trong câu như hầu hết các sách, các bài tập đã tập trung miêu tảvà luyện tập? Phải chăng cái khó đó chủ yếu là do sự khác biệt về quan niệm và nhận 71 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ 5(40).2010thức được phản ánh và mã hóa trong ngôn ngữ gây ra? Đi tìm một lời giải đáp để gópphần thúc đẩy việc học có hiệu quả là một công việc cần phải làm không những của cácthầy cô giáo người Việt dạy tiếng Anh, mà còn là của các nhà ngôn ngữ học. Giới từđịnh vị - một bộ phận chính của giới từ - sẽ là đối tượng nghiên cứu của bài viết này.2. Lịch sử nghiên cứu Việc nghiên cứu giới từ với tư cách là một phần của ngữ pháp đã có một lịch sửlâu dài, gắn với sự ra đời của bộ môn ngôn ngữ học. Tuy nhiên, việc nghiên cứu giới từ,đặc biệt là giới từ định vị không gian theo hướng ngữ dụng thì chỉ mới xuất hiện trongvòng hơn ba thập kỷ qua. Những công trình của Herskovits [9], [10], Jackendoff[11],[12], [13], Lakoff [15]. Langacker [16],[17] có thể như là những công trình tiêubiểu cho việc nghiên cứu theo hướng này. Tại Việt Nam cũng đã xuất hiện khá sớmhướng khảo sát giới từ định vị không gian theo quan điểm ngoài cấu trúc như NguyễnLai [5],[6] với luận án TSKH và chuyên luận về “Nhóm từ chỉ hướng vận động trongtiếng Việt”, Lý Toàn Thắng [7] với việc nghiên cứu về tri nhận không gian dựa trên tâmlí học tri nhận, và đặc biệt là luận án TSKH được bảo vệ năm 1993 với đề tài “Mô hìnhkhông gian của thế giới: sự tri nhận, văn hóa và tâm lí học tộc người”. Những công trìnhđó đã có đóng góp rất nhiều cho việc khởi động hướng nghiên cứu mới này ở Việt Nam.Việc vận dụng Ngôn ngữ học tri nhận vào nghiên cứu giới từ định vị không gian đã pháttriển rất mạnh trong thập kỷ 90 vừa qua. Sự phát triển của nó không chỉ đơn thuần ởbình diện ngôn ngữ học thuần túy mà đã có sự phối hợp liên ngành, chẳng hạn, đã cónhiều công trình nằm ở biên giới giữa Ngôn ngữ học lí thuyết và Trí tuệ nhân tạo. Bàiviết này chủ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: