Bên giòng lịch sử 1940 - 1965 - Huế điêu tàn và buồn thảm
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 76.63 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Huế điêu tàn và buồn thảmĐã lỡ hứa với ông Trần Văn Lý, tôi vào Huế khoảng cuối năm 1947. Tôi ở lại Huế vài tháng, nói chuyện với ông Lý khá nhiều. Lúc này tôi cũng có cơ hội gặp một số người trong đó có ông Ngô Đình Cẩn, Trần Điền, và dĩ nhiên là các cha sở Huế. Tôi ở lại Huế vài tháng, ông Lý đề nghị mời tôi làm giám đốc nha Văn hoá miền Trung, một nha chưa thành hình, có trách nhiệm như một bộ giáo dục thông tin thu hẹp mà ông...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bên giòng lịch sử 1940 - 1965 - Huế điêu tàn và buồn thảm Huế điêu tàn và buồn thảmĐã lỡ hứa với ông Trần Văn Lý, tôi vào Huế khoảng cuối năm 1947. Tôi ở lại Huếvài tháng, nói chuyện với ông Lý khá nhiều. Lúc này tôi cũng có cơ hội gặp mộtsố người trong đó có ông Ngô Đình Cẩn, Trần Điền, và dĩ nhiên là các cha sở Huế.Tôi ở lại Huế vài tháng, ông Lý đề nghị mời tôi làm giám đốc nha Văn hoá miềnTrung, một nha chưa thành hình, có trách nhiệm như một bộ giáo dục thông tin thuhẹp mà ông Lý định thành lập. Ông Lý sống rất đơn giản gần như khắc khổ, mặcdù lúc bấy giờ uy quyền ông, sau người Pháp thì khá lớn.Uy quyền đó, vào tay người khác đã hét được ra lửa. Riêng với ông Lý, tôi phảicông tâm mà nhận xét rằng trong thời gian quyền thủ hiến Trung Việt, ông Lý cốgắng làm những việc tốt, cứu giúp một vài người bị Tây tình nghi nhưng ông biếtkhông phải cộng sản.Tôi thấy tình thế không cho phép tôi hay bất cứ ai làm việc gì. Tôi từ chối và chútâm lo việc đọc sách tìm hiểu, qua lại với những người mà tôi thấy có tâm huyết.Dịp này tôi có gặp ông Ngô Đình Cẩn một vài lần, nhưng không thân lắm, bà cụKhả có vẻ mến tôi lắm, thường mỗi lần tôi đến thăm ông Cẩn, bà cụ hay chốnggậy ra hỏi thăm dặn dò ông Cẩn làm các món ăm ngon đãi tôi. Bà cụ rất mộ đạo,và đôi khi ngồi lại nói chuyện đạo với tôi khá lâu.Nhân một vài lúc rỗi rãnh tôi có vào thăm thành nội Huế, bùi ngùi nhìn cung điệnnhà Nguyễn nay hoang tàn, đổ nát. Tôi chợt nhớ đến Bảo Đại, người đang đượcnhắc đến khá nhiều ở Pháp những ngày tôi sắp về nước cũng như ở Việt Namnhững tháng vừa qua.Tôi không tìm thấy hy vọng đẹp đẽ nào ở con người đó, chẳng hiểu tại sao. Tôichưa gặp Bảo Đại, chưa thấy Bảo Đại, và những ý nghĩ của tôi có tính cáhc linhcảm hay trực giác mà thôi. Tôi không một lúc nào tin tưởng dù mong manh rằngBảo Đại sẽ làm được chuyện gì lớn lao xoay chuyển được tình thế đất nước xứngđáng đối thoại một mặt với nước Pháp, một mặt với Việt Minh, để trở thành mộtcơ hội qui tụ những người Việt Nam yêu nước không cộng sản nhưng không thểtheo Pháp.Nhận thấy ở tại Huế chẳng ích lợi gì, chẳng làm được việc gì, tôi tính về QuảngBình, thuộc địa phận Vinh.Lúc bấy giờ quân Pháp đã đổ bộ lên cửa sông Gianh, tiến sâu vào đến hết huyệnQuảng Trạch, Tuyên Hoá theo hai ngã sông Giang là Nguồn sơn và Nguồn nậy.Quân Pháp và lính bảo vệ đoàn đóng ở hai đồn lớn ở Quảng Khê và Ba Đồn.Những làng công giáo bắt đầu nổi lên chống lại Việt Minh, xin súng Pháp lậpđồng hương vệ trong làng. Tôi muốn tìm hiểu cái giải pháp này, cũng muốn sốngtrọn vẹn đời sống một linh mục nên dứt khoát rời Huế đi Đồng Hới, rồi từ đây đica nô ra Quảng Khê lên Ba Đồn và về xứ Đan Sa.Thời gian này tôi làm một cha xứ Đan Sa hết bổn phận, thay cha Dụng đã từ trần.Xứ Đan Sa, cũng như các xứ khác ở Hoà Ninh, Hướng Phương, Vĩnh Phước cũnglập đồn hương vệ, rào làng, xin súng Pháp để chống lại Việt Minh. Tôi không tinrằng giải pháp này là đúng, trái lại tôi lo sợ sẽ đem lại nhiều hậu quả tai hại hơncho người công giáo mà thôi, nhưng giáo dân có vẻ hăng say, tin tưởng.Lúc đó nếu người Pháp thực tâm thì tình thế không chừng có thể thay đổi, ít ra ởvùng tôi vừa đến, tức là vùng Quảng Bình từ Đèo Ngang trở vô phía Nam. Nhưngchỉ ít lâu tôi biết ngay rằng người Pháp không thực tâm, mà cũng không cóphương tiện, vũ khí để võ trang đầy đủ cho dân làng nào muốn tự trị chống lạiViệt Minh.Hình như bộ phận lãnh đạo Việt Minh trong tỉnh Quảng Bình, các huyện QuảngTrạch và Tuyên Hoá đã được báo cáo nhiều về tôi, nên thỉnh thoảng tôi nhận đượcmột thư mời của Chính uỷ huyện Tuyên Hoá. Lời lẽ có vẻ tha thiết, trình bày hơnthiệt, mời tôi hợp tác với chính phủ Việt Minh, tố cáo Pháp có những tội ác này nọ.Tôi không hiểu rõ những thư mời này do tự ý Chính uỷ huyện bày ra, hay có chỉthị từ trên. Tôi chẳng dám hy vọng rằng cụ Hồ còn nhớ đến tôi sau mấy lần gặp gỡ,chuyện trò, mặc dù tôi biết cụ có trí nhớ kỳ lạ. Cũng có những lá thư gần như lànhân danh cụ Hồ mời tôi nhưng tôi đoán điều đó chỉ là một thủ đoạn để vuốt ve tôimà thôi.Thời gian làm cha xứ ở Đan Sa tôi được cái an ủi là giúp đỡ dân chúng chẳngnhững về việc đạo, mà cả về những việc hết sức lẩm cẩm, bất ngờ, như chữa bệnhcảm gió cho một người đàn bà, bày thuốc giục đẻ cho bò cái.Sau gần một năm, tôi lên Hướng Phương, tức là nơi cai quản các xứ công giáotrong hạt Quảng Bình thuộc địa phận Vinh (bên kia sông Gianh về phía Nam thìlại thuộc địa phận Huế). Lúc này tôi thường nhận được thư mời của Chính uỷhuyện Tuyên Hoá hơn trước, và cạnh những lời mời mọc, thỉnh thoảng có nhữngđoạn ngụ ý đe doạ.Tôi trình bày với các cha về cách rào làng chống Việt Minh như thế này xemchừng không bền vững được, thà rằng chấp nhận sống như mọi người khác, khônglẽ Việt Minh lại giết hết người công giáo được sao, nhất là trong lúc họ cần thuphục lòng dân để đánh Pháp. Một vài cha đồng ý điều đó, nhưng nói rằng các giáodân không chịu.Tôi và cha Khẩn bàn nhau nên nói thẳng, hỏi ý định ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bên giòng lịch sử 1940 - 1965 - Huế điêu tàn và buồn thảm Huế điêu tàn và buồn thảmĐã lỡ hứa với ông Trần Văn Lý, tôi vào Huế khoảng cuối năm 1947. Tôi ở lại Huếvài tháng, nói chuyện với ông Lý khá nhiều. Lúc này tôi cũng có cơ hội gặp mộtsố người trong đó có ông Ngô Đình Cẩn, Trần Điền, và dĩ nhiên là các cha sở Huế.Tôi ở lại Huế vài tháng, ông Lý đề nghị mời tôi làm giám đốc nha Văn hoá miềnTrung, một nha chưa thành hình, có trách nhiệm như một bộ giáo dục thông tin thuhẹp mà ông Lý định thành lập. Ông Lý sống rất đơn giản gần như khắc khổ, mặcdù lúc bấy giờ uy quyền ông, sau người Pháp thì khá lớn.Uy quyền đó, vào tay người khác đã hét được ra lửa. Riêng với ông Lý, tôi phảicông tâm mà nhận xét rằng trong thời gian quyền thủ hiến Trung Việt, ông Lý cốgắng làm những việc tốt, cứu giúp một vài người bị Tây tình nghi nhưng ông biếtkhông phải cộng sản.Tôi thấy tình thế không cho phép tôi hay bất cứ ai làm việc gì. Tôi từ chối và chútâm lo việc đọc sách tìm hiểu, qua lại với những người mà tôi thấy có tâm huyết.Dịp này tôi có gặp ông Ngô Đình Cẩn một vài lần, nhưng không thân lắm, bà cụKhả có vẻ mến tôi lắm, thường mỗi lần tôi đến thăm ông Cẩn, bà cụ hay chốnggậy ra hỏi thăm dặn dò ông Cẩn làm các món ăm ngon đãi tôi. Bà cụ rất mộ đạo,và đôi khi ngồi lại nói chuyện đạo với tôi khá lâu.Nhân một vài lúc rỗi rãnh tôi có vào thăm thành nội Huế, bùi ngùi nhìn cung điệnnhà Nguyễn nay hoang tàn, đổ nát. Tôi chợt nhớ đến Bảo Đại, người đang đượcnhắc đến khá nhiều ở Pháp những ngày tôi sắp về nước cũng như ở Việt Namnhững tháng vừa qua.Tôi không tìm thấy hy vọng đẹp đẽ nào ở con người đó, chẳng hiểu tại sao. Tôichưa gặp Bảo Đại, chưa thấy Bảo Đại, và những ý nghĩ của tôi có tính cáhc linhcảm hay trực giác mà thôi. Tôi không một lúc nào tin tưởng dù mong manh rằngBảo Đại sẽ làm được chuyện gì lớn lao xoay chuyển được tình thế đất nước xứngđáng đối thoại một mặt với nước Pháp, một mặt với Việt Minh, để trở thành mộtcơ hội qui tụ những người Việt Nam yêu nước không cộng sản nhưng không thểtheo Pháp.Nhận thấy ở tại Huế chẳng ích lợi gì, chẳng làm được việc gì, tôi tính về QuảngBình, thuộc địa phận Vinh.Lúc bấy giờ quân Pháp đã đổ bộ lên cửa sông Gianh, tiến sâu vào đến hết huyệnQuảng Trạch, Tuyên Hoá theo hai ngã sông Giang là Nguồn sơn và Nguồn nậy.Quân Pháp và lính bảo vệ đoàn đóng ở hai đồn lớn ở Quảng Khê và Ba Đồn.Những làng công giáo bắt đầu nổi lên chống lại Việt Minh, xin súng Pháp lậpđồng hương vệ trong làng. Tôi muốn tìm hiểu cái giải pháp này, cũng muốn sốngtrọn vẹn đời sống một linh mục nên dứt khoát rời Huế đi Đồng Hới, rồi từ đây đica nô ra Quảng Khê lên Ba Đồn và về xứ Đan Sa.Thời gian này tôi làm một cha xứ Đan Sa hết bổn phận, thay cha Dụng đã từ trần.Xứ Đan Sa, cũng như các xứ khác ở Hoà Ninh, Hướng Phương, Vĩnh Phước cũnglập đồn hương vệ, rào làng, xin súng Pháp để chống lại Việt Minh. Tôi không tinrằng giải pháp này là đúng, trái lại tôi lo sợ sẽ đem lại nhiều hậu quả tai hại hơncho người công giáo mà thôi, nhưng giáo dân có vẻ hăng say, tin tưởng.Lúc đó nếu người Pháp thực tâm thì tình thế không chừng có thể thay đổi, ít ra ởvùng tôi vừa đến, tức là vùng Quảng Bình từ Đèo Ngang trở vô phía Nam. Nhưngchỉ ít lâu tôi biết ngay rằng người Pháp không thực tâm, mà cũng không cóphương tiện, vũ khí để võ trang đầy đủ cho dân làng nào muốn tự trị chống lạiViệt Minh.Hình như bộ phận lãnh đạo Việt Minh trong tỉnh Quảng Bình, các huyện QuảngTrạch và Tuyên Hoá đã được báo cáo nhiều về tôi, nên thỉnh thoảng tôi nhận đượcmột thư mời của Chính uỷ huyện Tuyên Hoá. Lời lẽ có vẻ tha thiết, trình bày hơnthiệt, mời tôi hợp tác với chính phủ Việt Minh, tố cáo Pháp có những tội ác này nọ.Tôi không hiểu rõ những thư mời này do tự ý Chính uỷ huyện bày ra, hay có chỉthị từ trên. Tôi chẳng dám hy vọng rằng cụ Hồ còn nhớ đến tôi sau mấy lần gặp gỡ,chuyện trò, mặc dù tôi biết cụ có trí nhớ kỳ lạ. Cũng có những lá thư gần như lànhân danh cụ Hồ mời tôi nhưng tôi đoán điều đó chỉ là một thủ đoạn để vuốt ve tôimà thôi.Thời gian làm cha xứ ở Đan Sa tôi được cái an ủi là giúp đỡ dân chúng chẳngnhững về việc đạo, mà cả về những việc hết sức lẩm cẩm, bất ngờ, như chữa bệnhcảm gió cho một người đàn bà, bày thuốc giục đẻ cho bò cái.Sau gần một năm, tôi lên Hướng Phương, tức là nơi cai quản các xứ công giáotrong hạt Quảng Bình thuộc địa phận Vinh (bên kia sông Gianh về phía Nam thìlại thuộc địa phận Huế). Lúc này tôi thường nhận được thư mời của Chính uỷhuyện Tuyên Hoá hơn trước, và cạnh những lời mời mọc, thỉnh thoảng có nhữngđoạn ngụ ý đe doạ.Tôi trình bày với các cha về cách rào làng chống Việt Minh như thế này xemchừng không bền vững được, thà rằng chấp nhận sống như mọi người khác, khônglẽ Việt Minh lại giết hết người công giáo được sao, nhất là trong lúc họ cần thuphục lòng dân để đánh Pháp. Một vài cha đồng ý điều đó, nhưng nói rằng các giáodân không chịu.Tôi và cha Khẩn bàn nhau nên nói thẳng, hỏi ý định ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử việt nam các cuộc chiến tranh nông dân và chiến tranh khái quát lịch sử triều đình huế hồ chủ tịchGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 144 0 0 -
69 trang 72 0 0
-
CHUYỆN VỀ BÁC HỒ - Thư từ Việt Nam
8 trang 68 0 0 -
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 60 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 56 0 0 -
11 trang 47 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 44 0 0 -
Áo dài Việt Nam qua các thời kì
21 trang 43 0 0 -
26 trang 42 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 41 0 0