Danh mục

Bệnh đậu mùa – Phần 1

Số trang: 12      Loại file: pdf      Dung lượng: 1,004.88 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (12 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vào tháng năm 1980,Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chính thức tuyên bố rằng bệnh đậu mùa đã được thanh toán. Tuyên bố này được đưa ra sau trường hợp cuối cùng mắc bệnh đậu mùa tự nhiên được ghi nhận tại Somalia, châu Phi vào tháng 10 năm 1977. WHO đã khép lại trang sách về bệnh đậu mùa sau khi triển khai các chiến dịch tiêm chủng rộng rãi và kiểm soát dịch tễ học tích cực từ 1967 đến 1977. Do bệnh đậu mùa không còn được coi là một mối đe dọa cho nhân...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh đậu mùa – Phần 1 Bệnh đậu mùa – Phần 1Vào tháng năm 1980,Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chính thức tuyên bố rằng bệnhđậu mùa đã được thanh toán. Tuyên bố này được đưa ra sau trường hợp cuối cùngmắc bệnh đậu mùa tự nhiên được ghi nhận tại Somalia, châu Phi vào tháng 10 năm1977. WHO đã khép lại trang sách về bệnh đậu mùa sau khi triển khai các chiếndịch tiêm chủng rộng rãi và kiểm soát dịch tễ học tích cực từ 1967 đến 1977. Dobệnh đậu mùa không còn được coi là một mối đe dọa cho nhân loại, cho nên việctiêm chủng chống lại bệnh này cũng ngừng theo.Vào năm 1966, vùng Tây Á là nơi chủ yếu tập trung những khu vực chính có bệnhlưu hành cuối cùng. Các quốc gia nằm trong diện này là Bangladesh, Ấn độ,Nepal, Pakistan và Afghanistan. Các ổ lưu hành khác tồn tại tại nhiều nơi ở châuPhi và Indonesia. Vào năm 1976, chỉ còn sót một số vùng nông thôn tại Ethiopiavà Somalia là những nơi cuối cùng phải thanh toán bệnh đậu mùa.Trận dịch chính cuối cùng tại châu Âu xảy ra tại vùng Balkan vào năm 1972, vốndo khách hành hương Hồi giáo mang về từ Mecca (. Bệnh đậu mùa đã không cònở nước Mỹ từ năm 1949, và ca bệnh cuối cùng biết được tại châu Mỹ xảy ra vàonăm 1971 tại Brazil.Virus gây bệnhTác nhân gây bệnh đậu mùa là virus variola, một trong nhiều virus đậu (pox virus)đã từng gây nhiễm cho nhiều loài động vật khác nhau hàng ngàn năm qua trên thếgiới. Đây là nhóm virus gây bệnh lớn nhất và phức tạp nhất, có hình dạng như 1viên gạch hoặc hình elip cổ điển với 2 chuỗi DNA. Khác với đa số các virus DNAlà tăng sinh bên trong nhân của tế bào ký chủ, virus đậu tìm cách sao chép bênngoài nhân tức là bên trong tế bào chất của tế bào bị nhiễm. Virus cởi bỏ lớp vỏbọc kép khi chui vào tế bào ký chủ, và sau đó từ tốn bắt đầu hấp thu các chất dinhdưỡng chọn lọc cần thiết cho sự sao chép từ tế bào chất bên ngoài. Các hình th ểsao chép của virus xuất hiện dưới dạng các khối tí teo hoặc thành các dải nhỏ nhưsợi chỉ rải rác trong tế bào chất của tế bào bị nhiễm. Các cụm virus đậu mùa khiđang sao chép thường tóm bắt bất cứ vật chất nào kế cận, kể cả những virus khácnhư Herpes simplex, kéo vào bên trong cấu trúc của mình. Các cụm virus lúc nàocũng di chuyển bên trong tế bào chất khi chúng tăng sinh và sao chép.Có nhiều khả năng là virus variola phát xuất từ 1 quần thể động vật, và khi có cơhội thuận tiện chúng nhảy sang loài khác để thích ứng với con người. Họ hàng gầngũi nhất đối với virus ở người, có khả năng gây nhiễm cho người là 1 pox virustương tự được phát hiện trong tự nhiên trên loài khỉ tại vùng Tây Phi. Virus đậukhỉ (monkey pox) có thể gây nhiễm rải rác cho người. Bệnh đậu khỉ có triệu chứngtương tự như đậu mùa thể nhẹ. Đôi khi bệnh có thể lây truyền từ người sangngười, nhưng đúng ra bệnh ở người chủ yếu là do tiếp xúc gần gũi với khỉ bịnhiễm. Các nghiên cứu về virus bệnh đậu khỉ trong tự nhiên cho thấy rằng loài sócsống thành từng bầy trong các vườn cọ lấy dầu quanh các làng mạc vùng Tây Phicũng mang virus, cho thấy rằng loài này cũng có thể là ổ chứa chính. Do virusbệnh đậu mùa và bệnh đậu khỉ quá giống nhau khiến cho người ta nghĩ rằng virusvariola nguyên thủy có thể phát xuất từ 1 biến thể của virus đậu khỉ.Virus variola là 1 tác nhân gây bệnh chớp nhoáng truyền bệnh từ người sangngười. Virus này không những chỉ phát triển mạnh trong các quần thể dân cư lớn,đông đúc, mà còn có thể tồn tại trong những nhóm dân cư nhỏ chen chúc tại nôngthôn. Không có tình trạng người mang virus nhưng không có triệu chứng. Khivirus gây nhiễm cho người nào, hoặc là chúng sẽ khống chế hệ thống miễn dịch đểtạo ra bệnh, hoặc là bị hệ thống miễn dịch tấn công và tiêu diệt. Virus chỉ có thểlây truyền sang người khác khi triệu chứng xuất hiện. Đám virus lúc nhúc đ ượcphóng thích thông qua các hạt ẩm nhỏ từ đường hô hấp trên, từ các mụn mủ ngoàida, hoặc từ các vẩy da khô tróc ra khi mụn mủ lành miệng. Khi bệnh hồi phục, tìnhtrạng miễn dịch sẽ tồn tại suốt đời. Khi không còn nạn nhân nào để tấn công, virussẽ tàn lụi vì số người trong quần thể đều đã nhiễm hết.Virus gây nhiễm cho ký chủ bằng đường hô hấp đi vào phổi. Phần lớn các trườnghợp nhiễm là do tiếp xúc gần gũi với người bệnh. Virus được lây truyền qua khôngkhí khi người bệnh ho hoặc hắt hơi tống virus từ họng và miệng ra ngoài. Các mụnvảy khô và mụn mủ ngoài da làm cho khăn trải giường và quần áo vấy nhiễmvirus. Đập giũ đồ vải có thể làm cho virus phát tán vào không khí. Virus có thể tồntại trong các chất sống lơ lửng trong hạt bụi của các vẩy mủ khô trong nhiều năm,có khi hàng thế kỷ, trong điều kiện không tiếp xúc ánh nắng và nhiệt độ quá caohoặc quá thấp. Người ta ngờ rằng trong một số trường hợp ruồi có thể là tác nhânmang virus từ các mụn chảy mủ ngoài da đến mô mũi. Tuy nhiên do virus pháttán, cho nên nhiễm trùng chỉ xảy ra khi có sự tiếp xúc thân cận với virus. Vì lẽvirus nhạy cảm với ánh nắng và nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, cho nên virus chỉquanh quẩn nơi ký chủ mà thôi.Cũng như các tác nhân gây bệnh khác, trên thế giới virus variola có nhiều chủngkhác nhau, tùy theo độc lực mà gây ra các thể bệnh từ nhẹ đến nặng. Trong cùngmột quần thể dân cư thường hiện diện bệnh đậu mùa cả thể nhẹ nặng lẫn thể nhẹ.Bệnh đậu mùaKhi virus xâm nhập vào phổi, chúng chui vào các hạch lymphô kề cận, tại đâychúng lặng lẽ tăng sinh trong các tế bào bạch huyết trước khi phát tán vào máu.Đây là thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài từ 10 đến 14 ngày. Bắt đầu có triệu chứngkhi virus theo dòng máu đến tấn công các tế b ào biểu mô. Đó là tế bào da, tế bàoniêm mạc miệng, mũi, họng, thanh mạc lót các nội tạng. Người bị nhiễm vô ýmang virus đi khắp nơi trong giai đoạn ủ bệnh, nhưng họ chỉ trở thành nguồntruyền nhiễm khi các thương tổn đậu mùa phát triển trong các mô nội mạc.Đáp ứng miễn dịch gây viêm của ký chủ, cũng như thương tổn trực tiếp do virusgây cho các tế bào bị tấn công mới làm cho xuất hiện cá ...

Tài liệu được xem nhiều: