Bệnh gan ở thai phụ
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 231.55 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bệnh gan ở thai phụ là một vấn đề khá phức tạp làm cho bác sĩ điều trị nhiều phen bối rối! Thực tế cho thấy phần lớn bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa-gan mật không thường xuyên tiếp xúc với thai phụ, trong khi đó bác sĩ sản phụ khoa lại ít gặp bệnh gan.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh gan ở thai phụTHỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014Bệnh gan ở thai phụNguyễn Hữu Chí ** BS.CKII - Bộ môn Nhiễm Đại Học Y Dược TP HCM Email: bsnguyenhuuchi@gmail.com, DĐ: 0903742130Bệnh gan ở thai phụ là một vấn đề khá phức to khiến cho việc khám gan trở nên khó khăntạp làm cho bác sĩ điều trị nhiều phen bối rối! hơn. Siêu âm gan không phát hiện đường mậtThực tế cho thấy phần lớn bác sĩ chuyên khoa dãn, nhưng kích thước của túi mật lúc đó cótiêu hóa-gan mật không thường xuyên tiếp thể to hơn, nhất là thể tích tồn đọng sau khixúc với thai phụ, trong khi đó bác sĩ sản phụ co bóp. Cấu tạo mô học của gan cũng khôngkhoa lại ít gặp bệnh gan. Mặt khác, bệnh gan có gì bất thường trong thai kỳ.1có nhiều liên hệ với thai kỳ, đồng thời phụ nữ Huyết động học có nhiều thay đổi trong thaimắc bệnh gan nặng lại ít khi mang thai. Thai kỳ. Thể tích huyết tương tăng (khoảng 50%)kỳ là trạng thái sinh lý có nhiều chỉ số sinh từ tuần 6 đến 36, thể tích hồng cầu cũng tănghọc thay đổi so với một phụ nữ không mang nhẹ (khoảng 20%) và xuất hiện muộn. Vì vậy,thai. Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của một thể tích máu toàn phần tăng nhưng máu lạicon người thứ hai, đó chính là thai nhi.1 Một bị pha loãng, phản ánh bằng dung tích hồngsố bệnh gan chỉ gặp ở thai phụ, không xảy ra cầu giảm. Sau sanh thể tích huyết tương vàở phụ nữ không mang thai. Một số bệnh gan thể tích hồng cầu giảm do mất máu lúc sanh.khác có thể gặp ở tất cả mọi người, không Cung lượng tim tăng dần khi bắt đầu thai kỳkể có thai hay không, nhưng lại có khuynh cho đến khoảng ba tháng giữa, nhưng sauhướng diễn tiến nặng, phức tạp lúc có thai.2 đó giảm dần, gần như bình thường vào lúc Trước những phức tạp này, chăm sóc điều sanh. Lưu lượng máu đến gan có thể khôngtrị cho phụ nữ trẻ đang mang thai rất quan thay đổi nhưng tỉ lệ phần trăm tính theo cungtrọng, không những giúp họ ổn định sức khỏe lượng tim có giảm. Ở phụ nữ không mangtrong thai kỳ mà còn giúp họ chuyển dạ và thai, lượng máu qua gan chiếm khoảng 35%sanh con (càng bình thường càng tốt), mau cung lượng tim, nhưng khi có thai, lượngbình phục sau sanh. Trong những năm gần máu đến gan chỉ còn 28%. Sự thay đổi nàyđây nhờ vào tiến bộ khoa học, một số bệnh do một khối lượng máu được bắc cầu chạygan liên quan đến thai kỳ được biết nghiên qua nhau thai.2 Nồng độ albumin trong máucứu nhiều hơn, giúp chúng ta thiết kế được giảm vào ba tháng đầu và tiếp tục giảm trongcác bước tiếp cận hợp lý khi chăm sóc điều thai kỳ. Tuy nhiên, một số protein khác lạitrị cho bệnh nhân. tăng như α2-macroglobulin, ceruloplasmin, fibrinogen. Cholesterol, triglyceride tăng,Lá gan của thai phụ nhưng ít khi được thực hiện trong thai kỳ vìNhững thay đổi về cơ cấu gan và chức năng lợi ích không rõ ràng. Thời gian prothrombingan đã được tổng kết từ nhiều năm qua3,4. Sao không thay đổi nhưng nồng độ fibrinogen lạimạch, bàn tay son thường xuất hiện trong tăng vào cuối thai kỳ.1thai kỳ và có khuynh hướng biến mất sau Hiểu biết về những thay đổi sinh học trongsanh. Vào ba tháng cuối của thai kỳ, tử cung thai kỳ giúp chúng ta đọc và phân tích kết20 TỔNG QUAN Y VĂNquả xét nghiệm gan được thực hiện cho thai phúc mạc. Nếu thai kỳ tiến triển, bệnh nhânphụ. Nồng độ phosphatase kiềm trong huyết thường có một khối to ở vùng gan. Thai tiênthanh tăng vào giai đoạn cuối của thai kỳ, phát ở vùng gan được chẩn đoán bằng siêuhậu quả của việc hình thành các isoenzym ở âm hoặc CT scan. Chấm dứt thai kỳ bằngnhau và xương. Như vậy, ở thai phụ nồng độ cách mở ổ bụng để giảm nguy cơ xuất huyếtphosphatase kiềm tăng chưa hẳn là do bệnh do vỡ túi thai.1gan.1 Trong phần lớn tài liệu đã công bố chothấy nồng độ AST và ALT bình thường trong Ói mửa lúc mang thai (HEG)thai kỳ. GGT (γ-glutamyltransferase) giảm Trong ba tháng đầu của thai kỳ, nôn ói là dấuvào ba tháng cuối của thai kỳ. Bilirubin toàn hiệu xuất hiện sớm và thường gặp, có thểphần, trực tiếp và gián tiếp giảm trong thai kỳ. xảy ra trong gần 50% thai phụ. Nguyên nhân5’-nucleotidase bình thường hoặc tăng nhẹ có thể do co thắt dạ dày bất thường nhanhvào ba tháng giữa và cuối của thai kỳ. Nồng hơn lúc chưa mang thai.5 Tuy nhiên, HEGđộ acid mật toàn phần trong huyết thanh lúc lại ít gặp (0,5-1%). Ranh giới giữa dấu hiệuđói trong giới hạn bình thường. Xét nghiệm thông thường và dấu hiệu bệnh nặng khôngnày hiện nay vẫn còn hữu dụng để chẩn đoán rõ ràng. HEG được định nghĩa là ói mửa kéotắc mật trong thai kỳ một khi các xét nghiệm dài, sụt cân > 5% thể trọng, tiểu ra ketones.thường quy về gan khác bình thường. Như HEG gây mất nước nặng cần phải nhập viện.6vậy, khi thai phụ có AST, ALT, bilirubin, acid Tổn thương gan cũng được nhiều tác giả ghimật tăng nghĩa là họ có một bệnh lý cần được nhận.7,8 Tuy nhiên, HEG hiếm khi được xáckhảo sát.1 định bằng sinh thiết gan. Nếu có thực hiện sinh thiết, người ta ghi nhận không có phảnCác bệnh gan chỉ gặp ở thai phụ ứng viêm, một số tế bào gan bị hoại tử, hiếmMột số bệnh gan chỉ xảy ra ở thai phụ được khi thấy tắc mật.2kể đến là thai tiên phát ở vùng gan (primary Nôn ói xuất hiện vào tuần 4-10 của thai kỳ,hepatic pregnancy), ói mửa lúc mang thai rất khó điều trị nhưng tự biến mất sau ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh gan ở thai phụTHỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 76, Số 1, Tháng 6 – 2014Bệnh gan ở thai phụNguyễn Hữu Chí ** BS.CKII - Bộ môn Nhiễm Đại Học Y Dược TP HCM Email: bsnguyenhuuchi@gmail.com, DĐ: 0903742130Bệnh gan ở thai phụ là một vấn đề khá phức to khiến cho việc khám gan trở nên khó khăntạp làm cho bác sĩ điều trị nhiều phen bối rối! hơn. Siêu âm gan không phát hiện đường mậtThực tế cho thấy phần lớn bác sĩ chuyên khoa dãn, nhưng kích thước của túi mật lúc đó cótiêu hóa-gan mật không thường xuyên tiếp thể to hơn, nhất là thể tích tồn đọng sau khixúc với thai phụ, trong khi đó bác sĩ sản phụ co bóp. Cấu tạo mô học của gan cũng khôngkhoa lại ít gặp bệnh gan. Mặt khác, bệnh gan có gì bất thường trong thai kỳ.1có nhiều liên hệ với thai kỳ, đồng thời phụ nữ Huyết động học có nhiều thay đổi trong thaimắc bệnh gan nặng lại ít khi mang thai. Thai kỳ. Thể tích huyết tương tăng (khoảng 50%)kỳ là trạng thái sinh lý có nhiều chỉ số sinh từ tuần 6 đến 36, thể tích hồng cầu cũng tănghọc thay đổi so với một phụ nữ không mang nhẹ (khoảng 20%) và xuất hiện muộn. Vì vậy,thai. Bên cạnh đó còn có sự hiện diện của một thể tích máu toàn phần tăng nhưng máu lạicon người thứ hai, đó chính là thai nhi.1 Một bị pha loãng, phản ánh bằng dung tích hồngsố bệnh gan chỉ gặp ở thai phụ, không xảy ra cầu giảm. Sau sanh thể tích huyết tương vàở phụ nữ không mang thai. Một số bệnh gan thể tích hồng cầu giảm do mất máu lúc sanh.khác có thể gặp ở tất cả mọi người, không Cung lượng tim tăng dần khi bắt đầu thai kỳkể có thai hay không, nhưng lại có khuynh cho đến khoảng ba tháng giữa, nhưng sauhướng diễn tiến nặng, phức tạp lúc có thai.2 đó giảm dần, gần như bình thường vào lúc Trước những phức tạp này, chăm sóc điều sanh. Lưu lượng máu đến gan có thể khôngtrị cho phụ nữ trẻ đang mang thai rất quan thay đổi nhưng tỉ lệ phần trăm tính theo cungtrọng, không những giúp họ ổn định sức khỏe lượng tim có giảm. Ở phụ nữ không mangtrong thai kỳ mà còn giúp họ chuyển dạ và thai, lượng máu qua gan chiếm khoảng 35%sanh con (càng bình thường càng tốt), mau cung lượng tim, nhưng khi có thai, lượngbình phục sau sanh. Trong những năm gần máu đến gan chỉ còn 28%. Sự thay đổi nàyđây nhờ vào tiến bộ khoa học, một số bệnh do một khối lượng máu được bắc cầu chạygan liên quan đến thai kỳ được biết nghiên qua nhau thai.2 Nồng độ albumin trong máucứu nhiều hơn, giúp chúng ta thiết kế được giảm vào ba tháng đầu và tiếp tục giảm trongcác bước tiếp cận hợp lý khi chăm sóc điều thai kỳ. Tuy nhiên, một số protein khác lạitrị cho bệnh nhân. tăng như α2-macroglobulin, ceruloplasmin, fibrinogen. Cholesterol, triglyceride tăng,Lá gan của thai phụ nhưng ít khi được thực hiện trong thai kỳ vìNhững thay đổi về cơ cấu gan và chức năng lợi ích không rõ ràng. Thời gian prothrombingan đã được tổng kết từ nhiều năm qua3,4. Sao không thay đổi nhưng nồng độ fibrinogen lạimạch, bàn tay son thường xuất hiện trong tăng vào cuối thai kỳ.1thai kỳ và có khuynh hướng biến mất sau Hiểu biết về những thay đổi sinh học trongsanh. Vào ba tháng cuối của thai kỳ, tử cung thai kỳ giúp chúng ta đọc và phân tích kết20 TỔNG QUAN Y VĂNquả xét nghiệm gan được thực hiện cho thai phúc mạc. Nếu thai kỳ tiến triển, bệnh nhânphụ. Nồng độ phosphatase kiềm trong huyết thường có một khối to ở vùng gan. Thai tiênthanh tăng vào giai đoạn cuối của thai kỳ, phát ở vùng gan được chẩn đoán bằng siêuhậu quả của việc hình thành các isoenzym ở âm hoặc CT scan. Chấm dứt thai kỳ bằngnhau và xương. Như vậy, ở thai phụ nồng độ cách mở ổ bụng để giảm nguy cơ xuất huyếtphosphatase kiềm tăng chưa hẳn là do bệnh do vỡ túi thai.1gan.1 Trong phần lớn tài liệu đã công bố chothấy nồng độ AST và ALT bình thường trong Ói mửa lúc mang thai (HEG)thai kỳ. GGT (γ-glutamyltransferase) giảm Trong ba tháng đầu của thai kỳ, nôn ói là dấuvào ba tháng cuối của thai kỳ. Bilirubin toàn hiệu xuất hiện sớm và thường gặp, có thểphần, trực tiếp và gián tiếp giảm trong thai kỳ. xảy ra trong gần 50% thai phụ. Nguyên nhân5’-nucleotidase bình thường hoặc tăng nhẹ có thể do co thắt dạ dày bất thường nhanhvào ba tháng giữa và cuối của thai kỳ. Nồng hơn lúc chưa mang thai.5 Tuy nhiên, HEGđộ acid mật toàn phần trong huyết thanh lúc lại ít gặp (0,5-1%). Ranh giới giữa dấu hiệuđói trong giới hạn bình thường. Xét nghiệm thông thường và dấu hiệu bệnh nặng khôngnày hiện nay vẫn còn hữu dụng để chẩn đoán rõ ràng. HEG được định nghĩa là ói mửa kéotắc mật trong thai kỳ một khi các xét nghiệm dài, sụt cân > 5% thể trọng, tiểu ra ketones.thường quy về gan khác bình thường. Như HEG gây mất nước nặng cần phải nhập viện.6vậy, khi thai phụ có AST, ALT, bilirubin, acid Tổn thương gan cũng được nhiều tác giả ghimật tăng nghĩa là họ có một bệnh lý cần được nhận.7,8 Tuy nhiên, HEG hiếm khi được xáckhảo sát.1 định bằng sinh thiết gan. Nếu có thực hiện sinh thiết, người ta ghi nhận không có phảnCác bệnh gan chỉ gặp ở thai phụ ứng viêm, một số tế bào gan bị hoại tử, hiếmMột số bệnh gan chỉ xảy ra ở thai phụ được khi thấy tắc mật.2kể đến là thai tiên phát ở vùng gan (primary Nôn ói xuất hiện vào tuần 4-10 của thai kỳ,hepatic pregnancy), ói mửa lúc mang thai rất khó điều trị nhưng tự biến mất sau ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Thời sự Y học Sức khỏe sinh sản Bệnh gan ở thai phụ Huyết động học Lá gan của thai phụ Ói mửa lúc mang thaiTài liệu cùng danh mục:
-
5 trang 284 0 0
-
284 trang 253 0 0
-
8 trang 237 1 0
-
CÁC ĐƯỜNG CẮT CƠ BẢN TRONG SẢN KHOA
48 trang 218 0 0 -
Bài giảng Các vấn đề thường gặp của nửa sau thai kỳ: Biểu đồ tăng trưởng của thai nhi trong tử cung
3 trang 176 0 0 -
9 trang 169 0 0
-
5 trang 168 0 0
-
6 trang 157 0 0
-
9 trang 156 0 0
-
5 trang 142 0 0
Tài liệu mới:
-
Đề thi học kì 1 môn Tiếng Việt lớp 1 năm 2024-2025 có đáp án - Trường TH Thị trấn Vĩnh Bảo
4 trang 0 0 0 -
Đề thi học kì 1 môn GDCD lớp 7 năm 2024-2025 - Trường THCS Việt Hưng, Long Biên
4 trang 0 0 0 -
9 trang 0 0 0
-
117 trang 0 0 0
-
116 trang 0 0 0
-
26 trang 0 0 0
-
116 trang 0 0 0
-
108 trang 0 0 0
-
6 trang 0 0 0
-
Bán tổng hợp và đánh giá tác động ức chế enzym acetylcholinesterase của một số dẫn chất hesperetin
6 trang 0 0 0