Danh mục

bệnh trẻ em - Vì sao trẻ sơ sinh suy hô hấp và qua đời

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 136.93 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vì sao trẻ sơ sinh suy hô hấp và qua đờiNgay sau khi chào đời hoặc chỉ vài giờ sau sinh, trẻ đã thở nhanh (nhịp trên 60 lần/phút), thở rên, rút lõm ngực, tím tái vì thiếu oxy rồi đuối sức, thở chậm lại rồi ngưng thở. Có thể tiên lượng được sự cố nguy hiểm này khi trẻ bị sinh non, sinh ngạt, khi mẹ có bệnh hoặc cố tình sinh mổ. Hội chứng suy hô hấp (Respiratory Distress Syndrome) là bệnh lý gây ra do thiếu chất surfactant. Trước đây người ta gọi bệnh này là "bệnh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
bệnh trẻ em - Vì sao trẻ sơ sinh suy hô hấp và qua đời Vì sao trẻ sơ sinh suy hô hấp và qua đờiNgay sau khi chào đời hoặc chỉ vài giờ sau sinh, trẻ đã thở nhanh (nhịp trên60 lần/phút), thở rên, rút lõm ngực, tím tái vì thiếu oxy rồi đuối sức, thở chậmlại rồi ngưng thở. Có thể tiên lượng được sự cố nguy hiểm này khi trẻ bị sinhnon, sinh ngạt, khi mẹ có bệnh hoặc cố tình sinh mổ.Hội chứng suy hô hấp (Respiratory Distress Syndrome) là bệnh lý gây ra do thiếuchất surfactant. Trước đây người ta gọi bệnh này là bệnh màng trong do quan sátthấy màng eosinophile lót trong khoảng phế nang của những trẻ tử vong vì bệnhsuy hô hấp.Thành phế nang bao gồm hai loại tế bào: Tế bào phế nang loại 1 giữ vai trò traođổi khí giữa máu mao mạch và khí phế nang. Tế bào phế nang loại 2 là nơi tổnghợp và dự trữ surfactant. Các tế bào này bắt đầu biệt hóa từ biểu mô trụ từ tuần lễthứ 24 của thai và chủ yếu vào khoảng tuần lễ thứ 34.Trong số 3 trẻ sinh non, khi thai chưa được 34 tuần, sẽ có 1 cháu gặp sự cố này.Ðối với nhóm trẻ sinh non thai trước 28 tuần, tỷ lệ suy hô hấp lên đến hơn 80%.Các yếu tố nguy cơ- Sinh non: Sinh non là yếu tố quan trọng nhất liên quan đến suy hô hấp. Tế bàophế nang loại 2 có số lượng ít cho đến tuần lễ thứ 34. Do đó, suy hô hấp ít gặp ởtrẻ sinh sau 34 tuần.Trẻ sinh non (nhất là trẻ sinh cực non), do thiếu surfactant và cấu trúc phổi chưađầy đủ (các phế nang chỉ bắt đầu hình thành từ tuần lễ thứ 30); sự trao đổi khí cóthể không hiệu quả vì nó xảy ra chủ yếu qua các tiểu phế quản trong khi các cơ hôhấp chưa phát triển đầy đủ và lồng ngực mềm làm phổi dễ bị xẹp.- Yếu tố di truyền: Khi một bà mẹ sinh con non tháng bị suy hô hấp, cơ hội lầnsinh sau cũng non và bị suy hô hấp lên đến 90%. Suy hô hấp chiếm tỷ lệ cao ở trẻda trắng hơn trẻ da đen. Trẻ nam thường gặp và bị suy hô hấp nặng hơn trẻ nữ.- Mẹ bị tiểu đường: Ðường huyết của mẹ cao dẫn đến nồng độ Insulin của thai cao.Insulin làm chậm trưởng thành tế bào phế nang loại 2, dẫn đến tần suất sinh trẻ suyhô hấp ở bà mẹ tiểu đường cao gấp 6 lần bà mẹ không tiểu đường.- Tổn thương chu sinh: Ngạt và xuất huyết trước sinh làm tăng nguy cơ suy hô hấp.Thiếu oxy máu và toan máu ức chế tổng hợp surfactant. Thiếu oxy máu và tụthuyết áp phá hủy tế bào phế nang loại 1 và mao mạch phổi. Tổn thương hàng ràophế nang - mao mạch dẫn đến phù phổi, từ đó làm suy giảm chức năng surfactant.Hạ thân nhiệt gây thiếu oxy máu và toan máu, do đó cũng ức chế chức năngsurfactant.- Sinh mổ: Sinh mổ khi bà mẹ chưa chuyển dạ kèm tỷ lệ suy hô hấp ở trẻ sơ sinhcao. Chuyển dạ phóng thích các nội tiết tố nhóm catecholamin và steroid giúp kíchthích sản xuất và phóng thích surfactant và gây tăng tái hấp thu dịch phổi qua hệbạch huyết phổi. Do đó trẻ sinh mổ lúc bà mẹ chưa chuyển dạ sẽ thiếu surfactantvà có lượng dịch trong phổi cao.Giữa tháng 1/1986 đến 3/1991, tại BV Northwestern Memorial (Illinois, Mỹ) có1.207 trường hợp sinh mổ vì mẹ có vết mổ cũ và mổ khi chưa chuyển dạ, trong đócó 5 trường hợp suy hô hấp. Tỷ lệ suy hô hấp sau sinh mổ khi chưa chuyển dạ là0,41%. Các trường hợp này phải điều trị tại khoa Hồi sức sơ sinh với thở máy.Trong vài năm gần đây, ở Việt Nam có tình trạng một số sản phụ mê tín dị đoan,đi xem bói để chọn ngày tốt sinh con và xin mổ chủ động bắt con mặc dù mẹ chưachuyển dạ. Hậu quả, đã có những trường hợp sau sinh, trẻ sơ sinh bị suy hô hấpnặng, phải nhập khoa Hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi đồng 1, có cháu đã tử vong.Điều trịNguyên tắc điều trị trẻ sơ sinh suy hô hấp là điều trị surfactant thay thế, cungcấp oxy qua thở áp lực dương liên tục hoặc thở máy. Bên cạnh đó là cácphương pháp điều trị hỗ trợ như bảo vệ thân nhiệt, Xử trí ban đầu với 4chứng thường gặp ở trẻ(Trích NLĐ ngày 27/11/2001)1. Đau bụng: đứa trẻ nào thỉnh thoảng cũng có thể bị đau bụng. Đau bụng là triệuchứng do nhiều nguyên nhân gây ra và việc xác định nguyên nhân không phải lúcnào cũng dễ dàng. Thử cố gắng tìm xem chuyện gì xảy ra với trẻ. Nếu trẻ khócthét và gập chân vào người tuy đau nhưng không có dáng vẻ gì bệnh nặng thì cóthể là đau “quặn bụng”. Chứng đau quặn bụng là tình trạng thường gặp ở trẻ nhỏtrong ba tháng đầu đời và thường xảy ra về đêm (three months or evening colie).Đặt trẻ nằm sấp trên hai đầu gối của bạn, vỗ nhẹ vào lưng, dùng một số thuốc húthơi (infant colie drops, ví dụ: Babygaz) có thể làm trẻ đỡ đau và sau đó đưa trẻ đếngặp bác sĩ để loại trừ các nguyên nhân gây đau bụng khác. Còn nếu thấy trẻ đaubụng mà da niêm tái nhợt, ói nhiều ra nước hoặc máu, đau bụng kèm theo sốt, cầnnhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất. Không cho trẻ uống bất kỳ một loạithuốc gì, không cho trẻ ăn, uống cho đến khi trẻ được bác sĩ thăm khám. Khi trẻ bị đau bụng do bất kỳ nguyên nhân gì bạn cần đưa trẻ đến gặp bácsĩ ngay nếu: - Đau mỗi lúc nặng hơn. - Tái nhợt, vã mồ hôi, đau bụng gập cả người lại. - Không cho bạn sờ vào bụng vì đau. - Đau kèm sốt ...

Tài liệu được xem nhiều: