Trong dân gian Việt Nam thường có câu: Khớp nó đớptim, tim tìm đến thận, thận cận với gan, chính là chỉ tìnhtrạng bệnh van hai lá. Không như nhiều bệnh tim khác,bệnh van hai lá khá…“đỏng đảnh”
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bệnh Van tim... “đỏng đảnh” Van tim... “đỏng đảnh”Trong dân gian Việt Nam thường có câu: Khớp nó đớptim, tim tìm đến thận, thận cận với gan, chính là chỉ tìnhtrạng bệnh van hai lá. Không như nhiều bệnh tim khác,bệnh van hai lá khá…“đỏng đảnh”: hẹp cũng không được,hở cũng không xong, vừa hẹp, vừa hở cũng gây sự. Xuấthiện ở nước nghèo bằng con đường này, nhảy qua xứgiàu lại theo con đường khác. Y văn cũng không biết đâumà lần. Bệnh van hai lá đa phần có nguyên nhân từ thấp tim, xảy ra khi bệnh nhân còn trẻ. Hầu hếtcác trường hợp mắc bệnh này trên thế giới xảy ra ởnhững nước nghèo và rơi vào người nghèo, sống trongnhững khu nhà ẩm thấp thiếu vệ sinh, dễ lây nhiễm cácbệnh của vùng họng mũi và đường hô hấp do vi trùngStreptococus gây nên. Khi mắc bệnh lại không đủ tàichính để theo đuổi một chương trình điều trị lâu dài và khátốn kém (bao gồm sử dụng kháng sinh liên tục và kéo dàitừ khi bị viêm nhiễm đến năm 25 tuổi). Cũng có một sốtrường hợp, bệnh nhân do chủ quan, không được giáodục và phổ biến kiến thức y học đúng đắn, nên khi bị bệnhkhông chịu điều trị một cách bài bản và đúng cơ chế gâybệnh, từ đó tạo ra tình trạng viêm nhiễm liên tục và táiphát. Số khác thì rơi vào tình trạng kháng trị với thuốckháng sinh.Thường gặp nhất hẹp van hai láBệnh đầu tiên về van tim hậu thấp phải kể đến là bệnhhẹp van hai lá. Đây là một căn bệnh về van tim hay gặpnhất, chiếm gần 60% các bệnh về van tim. Những triệuchứng cơ bản của bệnh đã được ghi nhận trong y văn làkhó thở, đặc biệt khó thở khi nằm và kịch phát về đêm.Các triệu chứng này cũng xuất hiện khi bệnh nhân có thaihoặc bị rung nhĩ. Chính vì vậy ở những phụ nữ bị hẹp vanhai lá chưa được điều trị triệt để, các thầy thuốc thườngkhuyên người bệnh không nên có thai. Có khoảng 50 –80% các bệnh nhân bị hẹp van hai lá có xuất hiện nhữngcơn rung nhĩ kịch phát hay mạn tính. Từ đó có thể gây raphù phổi cấp và thúc đẩy nhanh quá trình suy tim làm chobệnh nhân có thể tử vong, nếu không được cấp cứu kịpthời.Có ba mức độ hẹp của van tim: hẹp nhẹ, hẹp vừa và hẹpkhít hai lá van. Để chẩn đoán chính xác, bệnh nhân cầnđược siêu âm tim. Lúc đó thầy thuốc sẽ thấy rõ hoạt độngcủa van hai lá và tình trạng hẹp của nó. Bệnh hẹp van hailá có thể có hoặc không có triệu chứng suốt đời. Hầu hếtcác trường hợp, trong một thời gian dài không có triệuchứng, sau đó sẽ làm hạn chế hoạt động thể lực. Sự xuấthiện tình trạng rung nhĩ thường làm cho suy tim trở nênnặng hơn. Việc điều trị chủ yếu là chống suy tim bằng chếđộ ăn hạn chế muối, nghỉ ngơi, nằm đầu cao khi ngủ, sửdụng thuốc chống suy tim, lợi tiểu… Nếu bệnh nhân bịhẹp van hai lá nặng thì cần phải can thiệp tạo hình tách lávan, tạo hình van hay thay toàn bộ van. Việc tách van hailá có thể thực hiện qua đường nội mạch không cần phảiphẫu thuật. Còn tạo hình lá van hay thay van tim cần phảiphẫu thuật với máy tim phổi nhân tạo. Tuy nhiên, nongvan bằng bong bóng hay phẫu thuật đều rất đắt tiền, phầnlớn bệnh nhân bị hẹp van hai lá do nghèo nên không thểtiếp cận với điều trị được, ngoại trừ có sự trợ giúp của xãhội hay của nhà nước qua hoạt động từ thiện hoặc bảoh i ể m y tế .Van tim của nữ dễ hởHở van hai lá có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Đaphần là do bệnh thấp tim kết hợp với dày van và sự diđộng của lá van. Bệnh thường phối hợp với hẹp van hai lágây nên tình trạng hẹp, hở van hai lá. Ở các nước pháttriển, thấp tim không còn là nguyên nhân chính gây bệnhhở van hai lá nữa mà thay vào đó là do các nguyên nhânkhác như thoái hoá nhầy trong hội chứng Marfan, viêm nộitâm mạch nhiễm trùng, đứt dây chằng van tim… Tuynhiên, ở những nước đang phát triển như Việt Nam và ởnhững người nghèo thì nguyên nhân chính hiện nay vẫnlà biến chứng của thấp tim.Các triệu chứng chính của hở van hai lá cũng vẫn lànhững cơn đau ngực trái không điển hình, khó thở kèmtheo mệt mỏi, có thể có cảm giác hồi hộp đánh trốngngực. Phần lớn bệnh nhân là nữ giới, gầy, có một số biếndạng nhẹ của lồng ngực. Việc chẩn đoán xác định tronggiai đoạn hiện nay chủ yếu dựa vào siêu âm tim. Có bốnmức độ hở van từ nhẹ tới nặng, phân theo cấp số từ 1/4 –4/4. Ngoài ra, trong một số trường hợp khác hay trước khiphẫu thuật, bệnh nhân có thể được đo áp lực động mạchphổi bằng thông tim. Đây là một xét nghiệm xâm lấn cóthể gây nguy hiểm cho bệnh nhân, do đó chỉ làm khi cóchỉ định đặc biệt của bác sĩ. Việc điều trị hở van hai lángoài thuốc chống suy tim, hạn chế ăn muối… thì phẫuthuật là phương pháp điều trị cơ bản giúp cứu sống bệnhnhân và giải quyết tốt tình trạng hở van hai lá, nhằm tránhđược một số biến chứng nặng của bệnh như suy tim,viêm nội tâm mạc nhiễm trùng...Cách nào để phòng bệnh?Do chi phí điều trị bệnh van tim rất cao, nên khô ...