Béo phì và nguy cơ cho sức khoẻ
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 146.80 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bệnh béo phì đã và đang tăng lên đến mức báo động và nó trở thành một vấn đề sức khỏe của thế giới, đặc biệt là những nước đã và đang phát triển. Điều mà mọi người đang quan tâm nhất là tình trạng béo phì ở lứa tuổi trẻ em, vì đó là mối đe dọa lâu dài đến sức khỏe, tuổi thọ nếu tình trạng này kéo dài đến tuổi trưởng thành. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì là tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Béo phì và nguy cơ cho sức khoẻ Béo phì và nguy cơ cho sức khoẻ Bệnh béo phì đã và đang tăng lên đến mức báo động và nó trở thànhmột vấn đề sức khỏe của thế giới, đặc biệt là những nước đã và đang pháttriển. Điều mà mọi người đang quan tâm nhất là tình trạng béo phì ở lứa tuổitrẻ em, vì đó là mối đe dọa lâu dài đến sức khỏe, tuổi thọ nếu tình trạng nàykéo dài đến tuổi trưởng thành. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì là tình trạng tích lũymỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đếnmức ảnh hưởng tới sức khỏe. Có thể đánh giá mức độ béo phì bằng chỉ sốkhối cơ thể (BMI). Năm 2006, theo điều tra mới nhất của Viện dinh dưỡng, tình trạngthừa cân, béo phì ở người Việt Nam đang có gia tăng nhanh, đặc biệt tỷ lệnày ở người trưởng thành (từ 25-64 tuổi) chiếm 16,8% số dân.sự và kết quảđiều tra năm 2008 về tình trạng dinh dưỡng trên 17.000 đối tượng từ 25- 64tuổi sống tại 8 vùng sinh thái trong cả nước cho thấy, tỉ lệ thừa cân, béo phìlà 16,3%, trong số đó, tỷ lệ tiền béo phì chiếm khoảng 9,7%. Tỷ lệ thừacân/béo phì cũng đang gia tăng theo lứa tuổi, nữ giới cao hơn so với namgiới và thành thị cao hơn so với nông thôn (32,5 và 13,8%). Tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em, nhất là lứa tuổi 6-11 đang cóxu hướng tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế nhất là các thành phố lớn vàcác đô thị. Ví dụ trong những năm 1995-1996 tỷ lệ trẻ em béo phì ởTP.HCM, Nha Trang, Hà Nội, Hải Phòng rất thấp, khoảng 1-2%. Nhưng chỉ3-4 năm sau đó thì tỷ lệ này đã tăng lên gấp 3 lần. Hiện nay, tỷ lệ béo phì ởtrẻ em từ 6-11 tuổi đã vượt qua ngưỡng 10% ở các thành phố trên. Béo phì có liên quan mật thiết với bệnh đái tháo đường không phụthuộc vào insullin. Khi mà trẻ bị béo phì thì nguy cơ mắc phải bệnh này sẽtăng lên lúc trở thành người lớn. Béo phì còn làm tăng nguy cơ bị sỏi mật ởmọi lứa tuổi, gấp tới 3-4 lần so với người không bị béo phì. Ngoài tác hại rấtlớn đến sức khỏe và cuộc sống của con người, bệnh béo phì còn ảnh hưởngkhông nhỏ tới vấn đề kinh tế, y tế vì nó làm cho các chi phí sử dụng dịch vụy tế tăng lên theo. Nguyên nhân: Nhiều chuyên gia y sinh học đã thống nhất với nhaucó một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới bệnh xuất hiện và phát triển. Do tậpquán ăn uống, trong khẩu phần ăn hàng ngày, nếu chúng ta ăn quá nhiều chấtdầu lipid. Cơ thể chúng ta vốn sẵn quen với chế độ ăn thanh đạm từ khi cònnhỏ và đã qua ít ra là từ hai đến ba thế hệ (ông, cha) bây giờ chuyển sangmột chế độ ăn giàu chất đạm, chất béo, cơ thể sẽ bị bất lực trong quá trìnhthích nghi (mất cân bằng năng lượng) mà dẫn tới béo phì. Nhiều hoạt độngthể lực hàng ngày không được tiến hành đều đặn hoặc bỏ hẳn, trong lúc đóchúng ta lại gia tăng các chế độ ăn và thành phần thực phẩm trong khẩuphần ăn. Chính lối sống tĩnh tại thay dần cho các hoạt động thể lực sẽ lànhững điều kiện thuận lợi cho béo phì tăng lên. Béo phì còn có mối liênquan khăng khít đến tình hình kinh tế văn hóa của gia đình và xã hội. Cuộcsống ngày càng no đủ thì những điều kiện sinh hoạt ăn uống trong gia đ ìnhsẽ có nhiều yếu tố thuận lợi cho béo phì xuất hiện và phát triển. Nhiều ngườicho rằng yếu tố di truyền cũng có vai trò trong béo phì. Yếu tố này đúng,song tỷ lệ không cao. Theo TS Allison và các cộng sự đã đưa ra 10 nguyên nhân khác cóthể dẫn tới béo phì và được đăng tải trên Tạp chí quốc tế về Béo phì: 1. Ngủ quá ít. Nếu bạn bị mất ngủ thường xuyên hoặc bận rộn đếnmức có rất ít thời gian để chợp mắt thì nguy cơ tăng cân trong tương lai làđiều khó tránh khỏi. 2. Ô nhiễm. Một số loại hormone kiểm soát trọng lượng cơ thể. Môitrường ngày nay đang bị ô nhiễm bởi các chất thải từ xe cộ, động cơ… sẽ tácđộng rất lớn tới những hormone này. 3. Điều hòa không khí. Bạn có thể đốt cháy một lượng calo nếu môitrường quanh bạn quá nóng hay quá lạnh để điều hòa thân nhiệt. Tuy nhiên,nhiều người ngày nay sống và làm việc trong những ngôi nhà hay vănphòng mà nhiệt độ luôn được kiểm soát ở mức lý tưởng. 4. Bỏ thuốc lá. Hút thuốc cũng giúp giảm cân. Thế giới ngày càng cónhiều người bỏ thuốc lá và vì thế cũng ngày càng có nhiều người béo phì? 5. Thuốc men. Rất nhiều loại thuốc khác nhau, bao gồm thuốc ngừathai, thuốc chứa hormone, thuốc tiểu đường, thuốc chống suy nhược vàthuốc áp huyết cao... Đây là nguyên nhân gây ra sự thay đổi về cân nặng. Sửdụng những loại thuốc này sẽ khiến cân nặng của cơ thể có xu hướng đi lên. 6. Tuổi thọ và chủng tộc. Những người Trung Mỹ và những ngườiMỹ gốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha thường có xu hướng bị béo phì hơnnhững người Mỹ gốc Âu. 7. Mẹ nhiều tuổi. Đã có một số bằng chứng cho thấy những ngườiphụ nữ lớn tuổi mới sinh con lần đầu thì đứa trẻ thường có nguy cơ bị béophì cao hơn. Rất nhiều phụ nữ Mỹ sinh con lần đầu khi lớn tuổi thậm chí đãgià. 8. Di truyền từ tổ tiên. Có một số ảnh hưởn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Béo phì và nguy cơ cho sức khoẻ Béo phì và nguy cơ cho sức khoẻ Bệnh béo phì đã và đang tăng lên đến mức báo động và nó trở thànhmột vấn đề sức khỏe của thế giới, đặc biệt là những nước đã và đang pháttriển. Điều mà mọi người đang quan tâm nhất là tình trạng béo phì ở lứa tuổitrẻ em, vì đó là mối đe dọa lâu dài đến sức khỏe, tuổi thọ nếu tình trạng nàykéo dài đến tuổi trưởng thành. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì là tình trạng tích lũymỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đếnmức ảnh hưởng tới sức khỏe. Có thể đánh giá mức độ béo phì bằng chỉ sốkhối cơ thể (BMI). Năm 2006, theo điều tra mới nhất của Viện dinh dưỡng, tình trạngthừa cân, béo phì ở người Việt Nam đang có gia tăng nhanh, đặc biệt tỷ lệnày ở người trưởng thành (từ 25-64 tuổi) chiếm 16,8% số dân.sự và kết quảđiều tra năm 2008 về tình trạng dinh dưỡng trên 17.000 đối tượng từ 25- 64tuổi sống tại 8 vùng sinh thái trong cả nước cho thấy, tỉ lệ thừa cân, béo phìlà 16,3%, trong số đó, tỷ lệ tiền béo phì chiếm khoảng 9,7%. Tỷ lệ thừacân/béo phì cũng đang gia tăng theo lứa tuổi, nữ giới cao hơn so với namgiới và thành thị cao hơn so với nông thôn (32,5 và 13,8%). Tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em, nhất là lứa tuổi 6-11 đang cóxu hướng tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế nhất là các thành phố lớn vàcác đô thị. Ví dụ trong những năm 1995-1996 tỷ lệ trẻ em béo phì ởTP.HCM, Nha Trang, Hà Nội, Hải Phòng rất thấp, khoảng 1-2%. Nhưng chỉ3-4 năm sau đó thì tỷ lệ này đã tăng lên gấp 3 lần. Hiện nay, tỷ lệ béo phì ởtrẻ em từ 6-11 tuổi đã vượt qua ngưỡng 10% ở các thành phố trên. Béo phì có liên quan mật thiết với bệnh đái tháo đường không phụthuộc vào insullin. Khi mà trẻ bị béo phì thì nguy cơ mắc phải bệnh này sẽtăng lên lúc trở thành người lớn. Béo phì còn làm tăng nguy cơ bị sỏi mật ởmọi lứa tuổi, gấp tới 3-4 lần so với người không bị béo phì. Ngoài tác hại rấtlớn đến sức khỏe và cuộc sống của con người, bệnh béo phì còn ảnh hưởngkhông nhỏ tới vấn đề kinh tế, y tế vì nó làm cho các chi phí sử dụng dịch vụy tế tăng lên theo. Nguyên nhân: Nhiều chuyên gia y sinh học đã thống nhất với nhaucó một số nguyên nhân cơ bản dẫn tới bệnh xuất hiện và phát triển. Do tậpquán ăn uống, trong khẩu phần ăn hàng ngày, nếu chúng ta ăn quá nhiều chấtdầu lipid. Cơ thể chúng ta vốn sẵn quen với chế độ ăn thanh đạm từ khi cònnhỏ và đã qua ít ra là từ hai đến ba thế hệ (ông, cha) bây giờ chuyển sangmột chế độ ăn giàu chất đạm, chất béo, cơ thể sẽ bị bất lực trong quá trìnhthích nghi (mất cân bằng năng lượng) mà dẫn tới béo phì. Nhiều hoạt độngthể lực hàng ngày không được tiến hành đều đặn hoặc bỏ hẳn, trong lúc đóchúng ta lại gia tăng các chế độ ăn và thành phần thực phẩm trong khẩuphần ăn. Chính lối sống tĩnh tại thay dần cho các hoạt động thể lực sẽ lànhững điều kiện thuận lợi cho béo phì tăng lên. Béo phì còn có mối liênquan khăng khít đến tình hình kinh tế văn hóa của gia đình và xã hội. Cuộcsống ngày càng no đủ thì những điều kiện sinh hoạt ăn uống trong gia đ ìnhsẽ có nhiều yếu tố thuận lợi cho béo phì xuất hiện và phát triển. Nhiều ngườicho rằng yếu tố di truyền cũng có vai trò trong béo phì. Yếu tố này đúng,song tỷ lệ không cao. Theo TS Allison và các cộng sự đã đưa ra 10 nguyên nhân khác cóthể dẫn tới béo phì và được đăng tải trên Tạp chí quốc tế về Béo phì: 1. Ngủ quá ít. Nếu bạn bị mất ngủ thường xuyên hoặc bận rộn đếnmức có rất ít thời gian để chợp mắt thì nguy cơ tăng cân trong tương lai làđiều khó tránh khỏi. 2. Ô nhiễm. Một số loại hormone kiểm soát trọng lượng cơ thể. Môitrường ngày nay đang bị ô nhiễm bởi các chất thải từ xe cộ, động cơ… sẽ tácđộng rất lớn tới những hormone này. 3. Điều hòa không khí. Bạn có thể đốt cháy một lượng calo nếu môitrường quanh bạn quá nóng hay quá lạnh để điều hòa thân nhiệt. Tuy nhiên,nhiều người ngày nay sống và làm việc trong những ngôi nhà hay vănphòng mà nhiệt độ luôn được kiểm soát ở mức lý tưởng. 4. Bỏ thuốc lá. Hút thuốc cũng giúp giảm cân. Thế giới ngày càng cónhiều người bỏ thuốc lá và vì thế cũng ngày càng có nhiều người béo phì? 5. Thuốc men. Rất nhiều loại thuốc khác nhau, bao gồm thuốc ngừathai, thuốc chứa hormone, thuốc tiểu đường, thuốc chống suy nhược vàthuốc áp huyết cao... Đây là nguyên nhân gây ra sự thay đổi về cân nặng. Sửdụng những loại thuốc này sẽ khiến cân nặng của cơ thể có xu hướng đi lên. 6. Tuổi thọ và chủng tộc. Những người Trung Mỹ và những ngườiMỹ gốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha thường có xu hướng bị béo phì hơnnhững người Mỹ gốc Âu. 7. Mẹ nhiều tuổi. Đã có một số bằng chứng cho thấy những ngườiphụ nữ lớn tuổi mới sinh con lần đầu thì đứa trẻ thường có nguy cơ bị béophì cao hơn. Rất nhiều phụ nữ Mỹ sinh con lần đầu khi lớn tuổi thậm chí đãgià. 8. Di truyền từ tổ tiên. Có một số ảnh hưởn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Béo phì bệnh thường gặp dinh dưỡng cho cơ thể y học phổ thông kiến thức y học cho mọi ngườiGợi ý tài liệu liên quan:
-
Một số Bệnh Lý Thần Kinh Thường Gặp
7 trang 177 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
SINH MẠCH TÁN (Nội ngoại thương biện hoặc luận)
2 trang 79 1 0 -
4 trang 68 0 0
-
2 trang 62 0 0
-
XÂY DỰNG VHI (VOICE HANDICAP INDEX) PHIÊN BẢN TIẾNG VIỆT
25 trang 53 0 0 -
Đau như 'kiến bò' hay 'điện giật' khi cột sống cổ bất hợp tác
5 trang 50 0 0 -
Những bí quyết chữa bệnh từ đậu phụ
5 trang 48 0 0 -
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, KỸ NĂNG SỬ DỤNG ORESOL
22 trang 45 0 0 -
Loại nấm bí ẩn – thuốc điều trị trầm cảm mới?
3 trang 43 0 0 -
Câu hỏi trắc nghiệm: Chuyển hóa muối nước
11 trang 41 0 0 -
Xử trí 'sự cố' khi trẻ chỉnh răng
5 trang 38 0 0 -
5 trang 38 0 0
-
10 trang 37 0 0
-
Thuốc nhuận tràng và cách dùng
4 trang 34 0 0 -
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỪA CÂN Ở TRẺ 2 - 6 TUỔI
47 trang 33 0 0 -
Hội chứng văn phòng thường gặp của dân công sở
4 trang 33 0 0 -
CỐ TINH HOÀN (Y phương tập giải)
3 trang 32 0 0 -
4 trang 31 0 0
-
Xoa bóp, bấm huyệt hỗ trợ phòng trị cao huyết áp
4 trang 31 0 0