Danh mục

Biến chứng của chảy máu não khoang dưới nhện

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 124.34 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chảy máu dưới nhện là tình trạng cấp cứu trong lĩnh vực thần kinh và nội khoa. Nếu không được chẩn đoán sớm, chính xác, xử trí đúng và kịp thời sẽ để lại di chứng nặng nề hoặc dẫn đến tử vong cho bệnh nhân. Theo các chuyên gia thần kinh học, chảy máu dưới nhện có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng nhiều nhất là từ 45-54 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Bệnh khởi phát đột ngột, bất kỳ lúc nào, khi đang làm việc bình thường, lúc nghỉ, kể cả lúc đang ngủ. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Biến chứng của chảy máu não khoang dưới nhện Biến chứng của chảy máu não khoang dưới nhệnChảy máu dưới nhện là tình trạng cấp cứu trong lĩnh vực thần kinh và nội khoa.Nếu không được chẩn đoán sớm, chính xác, xử trí đúng và kịp thời sẽ để lại dichứng nặng nề hoặc dẫn đến tử vong cho bệnh nhân.Theo các chuyên gia thần kinh học, chảy máu dưới nhện có thể gặp ở mọi lứa tuổi,nhưng nhiều nhất là từ 45-54 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Bệnh khởi phát đột ngột, bấtkỳ lúc nào, khi đang làm việc bình thường, lúc nghỉ, kể cả lúc đang ngủ.Một số trường hợp xảy ra khi bệnh nhân gắng sức, căng thẳng tâm lý, sau uốngrượu bia hoặc sau một chấn th ương sọ - não rất nhẹ mà nguyên nhân chính do vỡdị dạng mạch máu não, thông động-tĩnh mạch. Phần lớn khởi phát bệnh lúc nghỉ,không liên quan tới hoạt động gắng sức.Trong giai đoạn toàn phát, bệnh nhân có nhiều triệu chứng, nhưng thường gặp lànhức đầu.Nhức đầu thường xảy ra đột ngột, dữ dội, lúc đầu có thể chỉ khu trú, sau lannhanh khắp đầu, bệnh nhân không chịu nổi, vật vã. Triệu chứng tiếp theo là bệnhnhân có hiện trạng buồn nôn, nôn, cứng gáy, rối loạn ý thức, động kinh, liệt nửangười, tăng thân nhiệt... Nếu không phát hiện và xử lý sớm, chảy máu dưới nhệnsẽ gây nhiều biến chứng nguy hiểm.Chảy máu tái phát là biến chứng nguy hiểm nhất. Biến chứng này xảy ra chủ yếutrong 24 giờ đầu sau tai biến và cuối tuần thứ nhất, đầu tuần thứ hai của bệnh nếuphình mạch không được can thiệp sớm. Những trường hợp này diễn biến lâm sàngđang ổn định hoặc thuyên giảm đột ngột, nhức đầu dữ dội. Ngoài ra người bệnhcó thể nôn, co giật, kích thích, vật vã rồi đi vào hôn mê. Để hạn chế tình trạngchảy máu tái phát, cần kiểm soát huyết áp tốt, nằm bất động tại gi ường, hạn chếcác kích thích, tránh táo bón.Biến chứng tiếp theo là co thắt mạch não thứ phát, thường xuất hiện từ ngày thứ3 đến ngày thứ 21 và đỉnh cao là ngày thứ 6 đến ngày thứ 8 sau cơn đột quỵ. Biếnchứng này thường để lại di chứng nặng nề cho bệnh nhân, trường hợp nặng có thểtử vong. Biểu hiện trên lâm sàng là tình trạng của bệnh nhân đang ổn định hoặcthuyên giảm lại trở nên nặng hơn với trạng thái ý thức xấu đi, xuất hiện các triệuchứng thần kinh khu trú như liệt nửa người, liệt dây VII trung ương cùng bên liệtnửa người, thất ngôn...Tràn dịch màng não là biến chứng nặng của chảy máu dưới nhện, gây viêm dính,làm mất chức năng tiêu thấm dịch não-tủy, làm áp lực nội sọ tăng cao. Biến chứngnày hay xảy ra trong tuần thứ hai sau cơn đột quỵ và có thể muộn hơn. Với biếnchứng này bệnh nhân cần được phẫu thuật sớm để dẫn lưu dịch não-tủy cấp.Hạ natri máu cũng là biến chứng gặp chủ yếu tuần đầu, có thể gặp sau chảy máudưới nhện do bài tiết quá mức hoocmon chống bài niệu. Xử lý biến chứng nàybằng cách hạn chế lượng nước đưa vào cơ thể, chế độ ăn tăng muối. Nếu khôngcải thiện được thì phải truyền dung dịch mặn ưu trương. Ngoài ra, người bệnh cóthể bị những biến chứng khác về tim mạch như rối loạn nhịp tim, rung nhĩ, tăngmức độ suy tim, nhiễm khuẩn hô hấp, nhiễm khuẩn tiết niệu, huyết khối tĩnh mạchsâu, loét, suy kiệt.Chảy máu dưới nhện và vỡ phình động mạch não luôn song hành. Khi nói chảymáu dưới màng nhện, các thầy thuốc thường nghĩ ngay đến là do vỡ túi phìnhđộng mạch. Đây là một cấp cứu ngoại khoa thần kinh nặng, đòi hỏi phải can thiệpngay vì khối máu tụ làm nặng thêm tổn thương não, tăng thêm áp lực nội sọ, đặcbiệt gây chèn ép não cấp tính. Hiện nay việc điều trị cho những bệnh nhân n ày yhọc có hai phương pháp chính, đó là phẫu thuật kẹp cổ túi phình và can thiệp nộimạch. Phương pháp can thiệp nội mạch có nhiều ưu điểm vượt trội bởi tính antoàn, có thể điều trị sớm các phình mạch vỡ nếu tình trạng tri giác còn tốt.Để chẩn đoán nhằm phát hiện sớm những biến chứng nguy hiểm cho người bệnh,y học thường dùng phương pháp siêu âm doppler xuyên sọ, chụp cắt lớp vi tính sọnão có hình tăng tỷ trọng dạng máu ở khoang d ưới nhện, hoặc chọc dò dịch nãotủy. Kết quả siêu âm doppler mầu cho thấy hầu hết bệnh nhân đều có biểu hiện cothắt mạch não theo nhiều mức độ. Ưu điểm của siêu âm doppler mầu là theo dõivà phát hiện sớm biến chứng co thắt mạch trên lâm sàng, đặc biệt co thắt mạch saukhi dùng thuốc. Kỹ thuật này đơn giản, an toàn, có thể thực hiện hằng ngày ngaytại giường bệnh nhiều lần khi cần thiết, đặc biệt nó không gây nguy hại cho bệnhnhân. ...

Tài liệu được xem nhiều: