BÌNH ĐỊNH - Nẫu ơi, thương lắm - Nguyễn Phúc Liêm
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 197.03 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nẫu ơi, thương lắm - Nguyễn Phúc LiêmTừ phương xa xin gởi về quê hương một chút nhớ thương xứ Nẫu!Tiếng địa phương là tiếng nói chỉ phổ thông ở một địa phương, thường là một tỉnh, tuy nhiên cũng có nhiều tiếng chỉ dùng ở một vùng nhỏ và dĩ nhiên chỉ có người địa phương đó mới hiểu, mới áp dụng hàng ngày. Và đối với họ, đó là nét riêng rất thân thương. Ở Bình Định có khá nhiều tiếng địa phương, tượng trưng nhất là hai tiếng “nẫu” và “bậu”.Các địa phương khác thường gọi người...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÌNH ĐỊNH - Nẫu ơi, thương lắm - Nguyễn Phúc LiêmNẫu ơi, thương lắm - Nguyễn Phúc LiêmTừ phương xa xin gởi về quê hương một chút nhớ thương xứ Nẫu! Tiếng địa phương là tiếng nói chỉ phổ thông ở một địa phương, thường làmột tỉnh, tuy nhiên cũng có nhiều tiếng chỉ dùng ở một vùng nhỏ và dĩ nhiênchỉ có người địa phương đó mới hiểu, mới áp dụng hàng ngày. Và đối với họ,đó là nét riêng rất thân thương. Ở Bình Định có khá nhiều tiếng địa phương,tượng trưng nhất là hai tiếng “nẫu” và “bậu”. Các địa phương khác thường gọi người Bình Định là dân “xứ nẫu”, vì từnẫu là một đặc trưng trong ngôn từ của người Bình Định. Có một lần tôi vàoSài Gòn, đến chợ Bến Thành mua một xấp vải. Trong khi tiếp xúc, trả giá, quangôn ngữ, chủ sạp hàng là một phụ nữ đứng tuổi đã nhận ngay ra tôi là ngườiđồng hương Bình Định, nên từ việc mua bán lại biến thành cuộc thăm hỏi.Người bán hàng xởi lởi, mời mọc trò chuyện, hỏi thăm chuyện “ngoài mình”.Chị say sưa giới thiệu mình cũng là người “xứ nẫu”, hiện giờ ở đâu làm ăn rasao. Có lẽ cái sung sướng, vui vẻ của kẻ “ở xa gặp người quen” như lời thơ cổ“Tha hương ngộ cố tri” nên chị đã thoải mái trao đổi với tôi bằng ngôn ngữ địaphương Bình Định, như: “chàu rày ở quài (ngoài) mình thế nào?”, “làm ăn chắccũng tày người ta!”, “nẫu làm ăn có đặng không?”… Ngoài người Bình Định, tiếng nẫu còn được dùng tại vài nơi ở tỉnh PhúYên. Ngược dòng thời gian, từ khi nhà Lê mở rộng bờ cõi về phương Nam thìBình Định và Phú Yên thời ấy cùng một trấn. Thế nhưng, cùng nguồn gốc từmiền Bắc di cư vào nhưng tại sao tiếng “nẫu” và một số tiếng địa phương khácchỉ có ở Bình Định mà không có ở các địa phương khác? Lật lại những trang từđiển cũ của các tác giả Trương Vĩnh Ký và Thanh Nghị xuất bản trước năm1945, thì chỉ có chữ “Nậu” và chữ “Bậu” chứ không có chữ “Nẫu”. Theo đó, nậu (dt xưa): bọn; tụi; người khác - của nậu chứ không phải củamình; - Đầu nậu: chef de bande. Một lối giải thích khác cũng có lý: Người miền Bắc phát âm dấu nặng (.)thì người Bình Định lại nghe thành âm dấu ngã (~). Có lẽ vì thế mà từ “nậu”thành “nẫu” chăng?Câu ca dao phổ biến là:Ai về nhắn với nậu nguồnMăng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên.Tiếng “nậu” nghe cũng khá thân thương, lại vừa có âm điệu trong câu, ai vềnhắn với “nậu nguồn” – nghe êm hơn là “nẫu nguồn”. Còn có cách lý giải kháclà: cảnh vật và nước uống có ảnh hưởng nhiều trong giọng nói, nên việc lẫn lộngiữa dấu ngã và dấu nặng là lẽ thường. Trong thơ ca Bình Định, chúng ta vẫn thường gặp tiếng “nẫu”. Dù làngười di cư hay người chính gốc địa phương thì tình yêu luôn đến với họ:Thương chi cho uổng công tìnhNẫu về xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ.Hoặc:Ghe hư còn để dấu dầmNẫu đi đâu vắng dấu nằm còn đây.Từ “nẫu” trong Vè Thủy trình của lái ghe bầu cũng là một ví dụ:“… Giáp đầm Thị Nại, hãy còn sử xanhVô chợ ăn bún song thầnHỏi mua nón ngựa để dành về quêThiếu gì hải vị sơn khêVào nam ra bắc ê hề ngựa xeNói chơi sợ nẫu cười chêCó say đất khách mới mê nết người…”. Bài vè khá dài nhưng có đầm Thị Nại, bún song thần (song thằn) và nhấtlà câu: “Nói chơi sợ nẫu cười chê” cũng đủ xác định bài này có xuất xứ từngười Bình Định. Chữ “nẫu” còn đi vào trong thơ mới:Nẫu và tuiChắc gì lìa tử đã mau nguôiMột độ lìa sanh cũng ngậm ngùiMuối mặn, nẫu còn chiêm chiếp thíchGừng cay tui ngỡ hít hà vuiNẫu hờn nẫu giận tui xin nẫuTui dỗi tui buồn nẫu bỏ tuiXa nẫu ngày rày tui bị hạnDuyên xưa không có rặc tình xui.(Hà Giao) Bài thơ rất rõ nét “xứ nẫu”. Đứng về mặt ngữ pháp, “nẫu” là đại danh từ, ngôi thứ ba, tương đươngvới chữ “nó”, “họ”, “người ấy”,… Còn với chữ “Bậu”, theo từ điển cũ của haitác giả kể trên thì: Bậu (dt xưa): tiếng thân kêu vợ mình – Bậu nói với anh, không bẻ lựu hái đào Lựu đâu bậu bạc, đào nào bậu cầm tay. (Ca dao) Tiếng “Bậu” cũng là đại danh từ, ngôi thứ hai, tương đương với anh, em -tiếng “Bậu” nghe thân thương, tình tứ hơn:Tai nghe em bậu lấy chồngBất tỉnh nhơn sự, dậm chân kêu trời.Có nỗi buồn nào hơn khi được tin người yêu đi lấy chồng! Buồn đến bất tỉnhnhơn sự! Phải chăng là ngã xỉu, hay chết đứng như Từ Hải. Ngược lại, khi embậu từ chối lời cầu hôn của kẻ khác thì:Tai nghe em bậu chồng hồiCũng tày anh ních một bầu rượu ngon.Tâm sự của chàng giờ đây lại khác hẳn, lại sung sướng như một cuộc rượu saytúy lúy đầy hạnh phúc. Trong tình yêu, dù là người giàu hay người nghèo, quê hay tỉnh, trí thứchay bình dân đều có tâm trạng giống nhau. Khi yêu thường nhớ nhung:Tai nghe gà gáy ó oLòng thương em bậu ốm o gầy mòn.Thương yêu, nhớ nhung đến gầy ốm xác ve thì có lẽ đích thị là bệnh tương tưrồi. Còn khi đã yêu nhau mà phụ nhau thì:Bậu ra cho khỏi tay taCái thân bậu nát cái da bậu mòn.“Thương nhau lắm, cắn nhau đau” là vậy. Yêu nhau mà hai người hai ngả thì:Xa xôi chưa kịp nói năngTừ qua đến bậu như trăng xế chiều ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
BÌNH ĐỊNH - Nẫu ơi, thương lắm - Nguyễn Phúc LiêmNẫu ơi, thương lắm - Nguyễn Phúc LiêmTừ phương xa xin gởi về quê hương một chút nhớ thương xứ Nẫu! Tiếng địa phương là tiếng nói chỉ phổ thông ở một địa phương, thường làmột tỉnh, tuy nhiên cũng có nhiều tiếng chỉ dùng ở một vùng nhỏ và dĩ nhiênchỉ có người địa phương đó mới hiểu, mới áp dụng hàng ngày. Và đối với họ,đó là nét riêng rất thân thương. Ở Bình Định có khá nhiều tiếng địa phương,tượng trưng nhất là hai tiếng “nẫu” và “bậu”. Các địa phương khác thường gọi người Bình Định là dân “xứ nẫu”, vì từnẫu là một đặc trưng trong ngôn từ của người Bình Định. Có một lần tôi vàoSài Gòn, đến chợ Bến Thành mua một xấp vải. Trong khi tiếp xúc, trả giá, quangôn ngữ, chủ sạp hàng là một phụ nữ đứng tuổi đã nhận ngay ra tôi là ngườiđồng hương Bình Định, nên từ việc mua bán lại biến thành cuộc thăm hỏi.Người bán hàng xởi lởi, mời mọc trò chuyện, hỏi thăm chuyện “ngoài mình”.Chị say sưa giới thiệu mình cũng là người “xứ nẫu”, hiện giờ ở đâu làm ăn rasao. Có lẽ cái sung sướng, vui vẻ của kẻ “ở xa gặp người quen” như lời thơ cổ“Tha hương ngộ cố tri” nên chị đã thoải mái trao đổi với tôi bằng ngôn ngữ địaphương Bình Định, như: “chàu rày ở quài (ngoài) mình thế nào?”, “làm ăn chắccũng tày người ta!”, “nẫu làm ăn có đặng không?”… Ngoài người Bình Định, tiếng nẫu còn được dùng tại vài nơi ở tỉnh PhúYên. Ngược dòng thời gian, từ khi nhà Lê mở rộng bờ cõi về phương Nam thìBình Định và Phú Yên thời ấy cùng một trấn. Thế nhưng, cùng nguồn gốc từmiền Bắc di cư vào nhưng tại sao tiếng “nẫu” và một số tiếng địa phương khácchỉ có ở Bình Định mà không có ở các địa phương khác? Lật lại những trang từđiển cũ của các tác giả Trương Vĩnh Ký và Thanh Nghị xuất bản trước năm1945, thì chỉ có chữ “Nậu” và chữ “Bậu” chứ không có chữ “Nẫu”. Theo đó, nậu (dt xưa): bọn; tụi; người khác - của nậu chứ không phải củamình; - Đầu nậu: chef de bande. Một lối giải thích khác cũng có lý: Người miền Bắc phát âm dấu nặng (.)thì người Bình Định lại nghe thành âm dấu ngã (~). Có lẽ vì thế mà từ “nậu”thành “nẫu” chăng?Câu ca dao phổ biến là:Ai về nhắn với nậu nguồnMăng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên.Tiếng “nậu” nghe cũng khá thân thương, lại vừa có âm điệu trong câu, ai vềnhắn với “nậu nguồn” – nghe êm hơn là “nẫu nguồn”. Còn có cách lý giải kháclà: cảnh vật và nước uống có ảnh hưởng nhiều trong giọng nói, nên việc lẫn lộngiữa dấu ngã và dấu nặng là lẽ thường. Trong thơ ca Bình Định, chúng ta vẫn thường gặp tiếng “nẫu”. Dù làngười di cư hay người chính gốc địa phương thì tình yêu luôn đến với họ:Thương chi cho uổng công tìnhNẫu về xứ nẫu, bỏ mình bơ vơ.Hoặc:Ghe hư còn để dấu dầmNẫu đi đâu vắng dấu nằm còn đây.Từ “nẫu” trong Vè Thủy trình của lái ghe bầu cũng là một ví dụ:“… Giáp đầm Thị Nại, hãy còn sử xanhVô chợ ăn bún song thầnHỏi mua nón ngựa để dành về quêThiếu gì hải vị sơn khêVào nam ra bắc ê hề ngựa xeNói chơi sợ nẫu cười chêCó say đất khách mới mê nết người…”. Bài vè khá dài nhưng có đầm Thị Nại, bún song thần (song thằn) và nhấtlà câu: “Nói chơi sợ nẫu cười chê” cũng đủ xác định bài này có xuất xứ từngười Bình Định. Chữ “nẫu” còn đi vào trong thơ mới:Nẫu và tuiChắc gì lìa tử đã mau nguôiMột độ lìa sanh cũng ngậm ngùiMuối mặn, nẫu còn chiêm chiếp thíchGừng cay tui ngỡ hít hà vuiNẫu hờn nẫu giận tui xin nẫuTui dỗi tui buồn nẫu bỏ tuiXa nẫu ngày rày tui bị hạnDuyên xưa không có rặc tình xui.(Hà Giao) Bài thơ rất rõ nét “xứ nẫu”. Đứng về mặt ngữ pháp, “nẫu” là đại danh từ, ngôi thứ ba, tương đươngvới chữ “nó”, “họ”, “người ấy”,… Còn với chữ “Bậu”, theo từ điển cũ của haitác giả kể trên thì: Bậu (dt xưa): tiếng thân kêu vợ mình – Bậu nói với anh, không bẻ lựu hái đào Lựu đâu bậu bạc, đào nào bậu cầm tay. (Ca dao) Tiếng “Bậu” cũng là đại danh từ, ngôi thứ hai, tương đương với anh, em -tiếng “Bậu” nghe thân thương, tình tứ hơn:Tai nghe em bậu lấy chồngBất tỉnh nhơn sự, dậm chân kêu trời.Có nỗi buồn nào hơn khi được tin người yêu đi lấy chồng! Buồn đến bất tỉnhnhơn sự! Phải chăng là ngã xỉu, hay chết đứng như Từ Hải. Ngược lại, khi embậu từ chối lời cầu hôn của kẻ khác thì:Tai nghe em bậu chồng hồiCũng tày anh ních một bầu rượu ngon.Tâm sự của chàng giờ đây lại khác hẳn, lại sung sướng như một cuộc rượu saytúy lúy đầy hạnh phúc. Trong tình yêu, dù là người giàu hay người nghèo, quê hay tỉnh, trí thứchay bình dân đều có tâm trạng giống nhau. Khi yêu thường nhớ nhung:Tai nghe gà gáy ó oLòng thương em bậu ốm o gầy mòn.Thương yêu, nhớ nhung đến gầy ốm xác ve thì có lẽ đích thị là bệnh tương tưrồi. Còn khi đã yêu nhau mà phụ nhau thì:Bậu ra cho khỏi tay taCái thân bậu nát cái da bậu mòn.“Thương nhau lắm, cắn nhau đau” là vậy. Yêu nhau mà hai người hai ngả thì:Xa xôi chưa kịp nói năngTừ qua đến bậu như trăng xế chiều ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
đặc sản bình định võ việt nam con người bình định lịch sử bình định văn hóa bình định thơ văn bình địnhTài liệu cùng danh mục:
-
Tìm hiểu về Nam bộ xưa và nay: Phần 2
243 trang 373 0 0 -
8 trang 349 0 0
-
8 trang 316 0 0
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Bộc Nhiêu (1946-2015): Phần 1
110 trang 306 0 0 -
Nghiên cứu lý luận tôn giáo của Viện nghiên cứu tôn giáo trong 30 năm qua (1991-2021)
16 trang 300 0 0 -
Tìm hiểu Non nước Việt Nam: Sắc hương Bắc bộ - Phần 1
241 trang 274 0 0 -
15 trang 252 0 0
-
Oan và giải oan trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị của Nguyễn Dữ
6 trang 240 0 0 -
Ebook Lịch sử tư tưởng Nhật Bản: Phần 2
170 trang 237 0 0 -
9 trang 225 0 0
Tài liệu mới:
-
Bài kiểm tra chất lượng kiến thức hội nhập làm việc dành cho cán bộ mới
3 trang 0 0 0 -
21 trang 0 0 0
-
Luận văn Thạc sĩ Kiến trúc: Đánh giá thiết kế nhà ở xã hội tại quận hà đông TP Hà Nội
144 trang 0 0 0 -
87 trang 0 0 0
-
Quyết định số 190/2019/QĐ-UBND tỉnh BìnhDương
10 trang 1 0 0 -
70 trang 1 0 0
-
Chapter 16: Monopolistic competition
78 trang 1 0 0 -
130 trang 0 0 0
-
DN có vốn đầu tư nước ngoài, nên chốt theo tỷ lệ sở hữu nào?
3 trang 1 0 0 -
Thu hút đầu tư trở lại quê hương của các đồng bào đang làm ăn sinh sống xa tổ quốc
20 trang 0 0 0