Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527) - 2
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 127.17 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527)2Huyện thời Lê có một viên trưởng quan gọi là Tri huyện, cùng một viên phó quan gọi là Huyện thừa. Các chức quan này trực tiếp cai quản các công việc trong huyện. Hoạt động cơ bản của huyện là quản lý các xã thuộc huyện mình. Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý đất đai, thuế khoá và dân đinh của các xã. Đây là đơn vị hành chính quan trọng còn tồn tại đến ngày nay. Tổ chức và hoạt động cai...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527) - 2 Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527) 2Huyện thời Lê có một viên trưởng quan gọi là Tri huyện, cùng một viên phó quangọi là Huyện thừa. Các chức quan này trực tiếp cai quản các công việc tronghuyện.Hoạt động cơ bản của huyện là quản lý các xã thuộc huyện mình. Có vai trò đặcbiệt quan trọng trong việc quản lý đất đai, thuế khoá và dân đinh của các xã. Đâylà đơn vị hành chính quan trọng còn tồn tại đến ngày nay.Tổ chức và hoạt động cai trị cấp xãNếu trong xã hội Việt Nam truyền thống, gia đình thường được coi là tế bào củaxã hội, thì làng xã là đơn vị cố kết nhiều gia đình lại là tổ chức “mô” của xã hộiđó. Tuy nhiên, sự phát triển nội tại của làng xã không nhất thiết tỷ lệ thuận với sựgia tăng mức độ quản lý làng xã và sự can thiệp vào đời sống làng xã của nhànước phong kiến. Trong từng giai đoạn của lịch sử, hai yếu tố trên phát triển theochiều tỉ lệ nghịch: nhà nước mạnh thì làng xã yếu đi và khi nhà nước yếu đi thìlàng xã lại mạnh lên.Dưới triều Lê, chính sách “dĩ nông, vi bản”, “trọng nông ức thương” được thihành. Vì vậy, mối quan tâm hàng đầu của chính quyền nhà nước là việc quản lýchặt chẽ nông thôn, nắm cho được làng xã thông qua việc quản lý ruộng đất vàquản lý dân đinh. Vương triều Lê Sơ thông qua chính sách và luật pháp, nhất làphép quân điền đã cơ bản làm được điều đó. Triều đình trung ương một mặt đảmbảo giúp đỡ và mặt khác làm kiểm soát can thiệp vào mọi mặt đời sống của làngxã. Hoá Châu tuy là vùng đất mới thành lập và nằm xa chính quyền trung ương,song không thoát khỏi tình trạng đó.Hoá Châu thời Lê Sơ có 180 xã với sự phân bố như sau: Đan Điền 65 xã, Kim Trà72 xã và Tư Vinh 43 xã. Đứng đầu xã có chức đại và tiểu tư xã. Bên cạnh còn cácchức xã quan và xã chính. Năm 1428, Lê Lợi đặt xã quan, “xã lớn từ 100 người trởlên, có 3 xã quan, xã bậc trung từ 50 người trở lên, có 2 xã quan, xã nhỏ từ 10người trở lên có 1 xã quan” (9). Đến đời Thánh Tông định lại: đại xã gồm 500 hộtrở lên, trung xã 300 hộ trở lên và tiểu xã 100 hộ trở lên. Như vậy, phạm vi của xãso với thời Lê Lợi đã được mở rộng hơn nhiều. Tổ chức cai trị châu Hoá thời Lênhìn chung được quy định khá rạch ròi, nó cho thấy sự quản lý của nhà nước trungương đã với tay xuống làng xã trong quản lý dân đinh.Một điều đặc biệt trong làng xã Hoá Châu thời kỳ này là sự giao thoa, cộng cảmgiữa cộng đồng cư dân người Việt và người Chăm trong quá trình khai hoang lậplàng. Trong bản Thỉ Thiên tự tìm thấy được ở làng Câu Nhi (Quảng Trị) đã chothấy sự hiện diện khá đông đảo của người Chăm ở lại đất Hoá Châu và cùng vớinó là sự đan xen của làng người Việt di cư vào và làng của người Chăm còn lại ởvùng đất này: “Lúc đến xứ Ô châu mà ngày trước ta từng sống và bàn bạc với dânChiêm Thành xứ ấy xin cư trú rồi nên không có gì trở ngại. Do vậy, việc dựngnhà, mua cày bừa chỉ ít lâu là xong, bèn làm một cái rạp trước mặt nhà, biện mộtlễ tế giang sơn, xin cáo chôn cất kim cốt và ra sức canh cẩn ruộng nương” …. “Từnay về sau, chỗ ở đã yên, người Chiêm Thành thường lui tới, ta hết lòng tiếp đãihọ, giúp đỡ họ khi gặp khó khăn. Họ hay mang thổ cẩm đến tặng ta, ta không hềtiêu” (10). Như vậy, sự thành lập làng xã mới của người Việt cộng với những làngxã cũ của người Chăm còn lại, bức tranh cư dân châu Hoá thời kỳ này khá đa dạngnhưng không có nhiều xáo trộn.Dưới thời Lê Sơ, vị xã trưởng đảm nhận mọi việc trong xã, còn xã sử và xã tư làngười giúp việc thuế khoá, tuần tra và an ninh.Các chức danh và quan chức tiêu biểuSau khi giành lại độc lập cho đất nước, vua Lê Thái Tổ đã cử các trọng thần vàotrấn thủ Châu Hoá với nhiệm vụ bảo vệ vùng trọng trấn phía nam, tổ chức ổn địnhđời sống nhân dân, tăng cường việc di dân, khai hoang, phục hoá thành lập làng xãmới. Tiêu biểu là năm 1430, vua đã cử danh tướng Lê Khôi làm tổng quản hànhquân trấn thủ Châu Hoá.Lê Khôi là tướng giỏi, đồng thời cũng là nhà chính trị có biệt tài. Năm 1430, đượccử vào trấn thủ châu Hoá. Ông bãi trạm gác, bỏ sự xét hỏi nghiêm ngặt, chiêu mộdân xiêu tán, khuyên bảo làm ruộng trồng dâu. Dân biên giới bị bắt đều được đốiđãi tử tế, giáo dục rồi cho về; vì vậy, đức độ, tiếng tăm rộng khắp. Người Chiêmsợ uy mộ nghĩa, trả lại những nhân khẩu đã bắt trước.Với vùng đất Hoá Châu, Lê Khôi đã làm được khá nhiều việc ở vùng đất nơi biênviễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục còn ghi: “Hoá Châu gần kềChiêm Thành nên phải sai người bầy tôi có họ thân giữ lấy (11). Hay Đại Việtthông sửi còn ghi: “năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) vua sai Hành quân Tổng quảnlà Lê Khôi đóng quân tại Hoá Châu để trấn giữ nước Chiêm Thành” (12). NămBính Dần (1446); ông được lệnh cùng Lê Thận, Lê Xí cầm quân đánh ChiêmThành, đã đánh vào tận thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai. Năm 1447,ông mất trên đường trở về sau khi đánh trận Đồ Bàn thắng lợi.Nhắc đến v ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527) - 2 Bộ máy hành chính Hoá Châu thời Lê sơ (1428 - 1527) 2Huyện thời Lê có một viên trưởng quan gọi là Tri huyện, cùng một viên phó quangọi là Huyện thừa. Các chức quan này trực tiếp cai quản các công việc tronghuyện.Hoạt động cơ bản của huyện là quản lý các xã thuộc huyện mình. Có vai trò đặcbiệt quan trọng trong việc quản lý đất đai, thuế khoá và dân đinh của các xã. Đâylà đơn vị hành chính quan trọng còn tồn tại đến ngày nay.Tổ chức và hoạt động cai trị cấp xãNếu trong xã hội Việt Nam truyền thống, gia đình thường được coi là tế bào củaxã hội, thì làng xã là đơn vị cố kết nhiều gia đình lại là tổ chức “mô” của xã hộiđó. Tuy nhiên, sự phát triển nội tại của làng xã không nhất thiết tỷ lệ thuận với sựgia tăng mức độ quản lý làng xã và sự can thiệp vào đời sống làng xã của nhànước phong kiến. Trong từng giai đoạn của lịch sử, hai yếu tố trên phát triển theochiều tỉ lệ nghịch: nhà nước mạnh thì làng xã yếu đi và khi nhà nước yếu đi thìlàng xã lại mạnh lên.Dưới triều Lê, chính sách “dĩ nông, vi bản”, “trọng nông ức thương” được thihành. Vì vậy, mối quan tâm hàng đầu của chính quyền nhà nước là việc quản lýchặt chẽ nông thôn, nắm cho được làng xã thông qua việc quản lý ruộng đất vàquản lý dân đinh. Vương triều Lê Sơ thông qua chính sách và luật pháp, nhất làphép quân điền đã cơ bản làm được điều đó. Triều đình trung ương một mặt đảmbảo giúp đỡ và mặt khác làm kiểm soát can thiệp vào mọi mặt đời sống của làngxã. Hoá Châu tuy là vùng đất mới thành lập và nằm xa chính quyền trung ương,song không thoát khỏi tình trạng đó.Hoá Châu thời Lê Sơ có 180 xã với sự phân bố như sau: Đan Điền 65 xã, Kim Trà72 xã và Tư Vinh 43 xã. Đứng đầu xã có chức đại và tiểu tư xã. Bên cạnh còn cácchức xã quan và xã chính. Năm 1428, Lê Lợi đặt xã quan, “xã lớn từ 100 người trởlên, có 3 xã quan, xã bậc trung từ 50 người trở lên, có 2 xã quan, xã nhỏ từ 10người trở lên có 1 xã quan” (9). Đến đời Thánh Tông định lại: đại xã gồm 500 hộtrở lên, trung xã 300 hộ trở lên và tiểu xã 100 hộ trở lên. Như vậy, phạm vi của xãso với thời Lê Lợi đã được mở rộng hơn nhiều. Tổ chức cai trị châu Hoá thời Lênhìn chung được quy định khá rạch ròi, nó cho thấy sự quản lý của nhà nước trungương đã với tay xuống làng xã trong quản lý dân đinh.Một điều đặc biệt trong làng xã Hoá Châu thời kỳ này là sự giao thoa, cộng cảmgiữa cộng đồng cư dân người Việt và người Chăm trong quá trình khai hoang lậplàng. Trong bản Thỉ Thiên tự tìm thấy được ở làng Câu Nhi (Quảng Trị) đã chothấy sự hiện diện khá đông đảo của người Chăm ở lại đất Hoá Châu và cùng vớinó là sự đan xen của làng người Việt di cư vào và làng của người Chăm còn lại ởvùng đất này: “Lúc đến xứ Ô châu mà ngày trước ta từng sống và bàn bạc với dânChiêm Thành xứ ấy xin cư trú rồi nên không có gì trở ngại. Do vậy, việc dựngnhà, mua cày bừa chỉ ít lâu là xong, bèn làm một cái rạp trước mặt nhà, biện mộtlễ tế giang sơn, xin cáo chôn cất kim cốt và ra sức canh cẩn ruộng nương” …. “Từnay về sau, chỗ ở đã yên, người Chiêm Thành thường lui tới, ta hết lòng tiếp đãihọ, giúp đỡ họ khi gặp khó khăn. Họ hay mang thổ cẩm đến tặng ta, ta không hềtiêu” (10). Như vậy, sự thành lập làng xã mới của người Việt cộng với những làngxã cũ của người Chăm còn lại, bức tranh cư dân châu Hoá thời kỳ này khá đa dạngnhưng không có nhiều xáo trộn.Dưới thời Lê Sơ, vị xã trưởng đảm nhận mọi việc trong xã, còn xã sử và xã tư làngười giúp việc thuế khoá, tuần tra và an ninh.Các chức danh và quan chức tiêu biểuSau khi giành lại độc lập cho đất nước, vua Lê Thái Tổ đã cử các trọng thần vàotrấn thủ Châu Hoá với nhiệm vụ bảo vệ vùng trọng trấn phía nam, tổ chức ổn địnhđời sống nhân dân, tăng cường việc di dân, khai hoang, phục hoá thành lập làng xãmới. Tiêu biểu là năm 1430, vua đã cử danh tướng Lê Khôi làm tổng quản hànhquân trấn thủ Châu Hoá.Lê Khôi là tướng giỏi, đồng thời cũng là nhà chính trị có biệt tài. Năm 1430, đượccử vào trấn thủ châu Hoá. Ông bãi trạm gác, bỏ sự xét hỏi nghiêm ngặt, chiêu mộdân xiêu tán, khuyên bảo làm ruộng trồng dâu. Dân biên giới bị bắt đều được đốiđãi tử tế, giáo dục rồi cho về; vì vậy, đức độ, tiếng tăm rộng khắp. Người Chiêmsợ uy mộ nghĩa, trả lại những nhân khẩu đã bắt trước.Với vùng đất Hoá Châu, Lê Khôi đã làm được khá nhiều việc ở vùng đất nơi biênviễn. Khâm định Việt sử thông giám cương mục còn ghi: “Hoá Châu gần kềChiêm Thành nên phải sai người bầy tôi có họ thân giữ lấy (11). Hay Đại Việtthông sửi còn ghi: “năm Thuận Thiên thứ 3 (1430) vua sai Hành quân Tổng quảnlà Lê Khôi đóng quân tại Hoá Châu để trấn giữ nước Chiêm Thành” (12). NămBính Dần (1446); ông được lệnh cùng Lê Thận, Lê Xí cầm quân đánh ChiêmThành, đã đánh vào tận thành Đồ Bàn, bắt được vua Chiêm là Bí Cai. Năm 1447,ông mất trên đường trở về sau khi đánh trận Đồ Bàn thắng lợi.Nhắc đến v ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
lịch sử Việt Nam triều đại phong kiến việt nam các vị vua việt nam lịch sử dựng nước việt nam chuyện về các ông Hoàng đất việtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 9: Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly và triều Hồ (Sách Chân trời sáng tạo)
9 trang 141 0 0 -
69 trang 70 0 0
-
Giáo án Lịch sử lớp 11 - Bài 7: Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam (trước năm 1945)
19 trang 59 0 0 -
Giáo án môn Lịch sử lớp 11 (Sách Chân trời sáng tạo)
137 trang 55 0 0 -
Công tác công văn, giấy tờ thời phong kiến Việt Nam: Phần 1
98 trang 48 1 0 -
11 trang 46 0 0
-
Cương lĩnh của Đảng – ý nghĩa lịch sử ra đời của Đảng_2
7 trang 42 0 0 -
26 trang 40 0 0
-
Bài thuyết trình: Vinh Danh Phụ Nữ Truyền Thuyết Việt Nam
18 trang 39 0 0 -
4 trang 39 0 0