Danh mục

Các chiến lược mua bán và sáp nhập (M&A) trong một thị trường suy thoái

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 241.99 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mặc dù các nhà đầu tư luôn ngày càng trở lên nguyên tắc hơn trong những bản hợp đồng hiện nay của họ thì việc nâng cao chi phí mua lại và gia tăng tính cạnh tranh sẽ kiểm tra dũng khí của họ. Do đó, các cổ đông đều đang thu được một khoản hời từ bản hợp đồng tốt hơn trong thời kỳ bùng nổ M&A hiện nay so với những gì họ đã làm được trong thời gian vừa qua.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các chiến lược mua bán và sáp nhập (M&A) trong một thị trường suy thoái Các chiến lược mua bán và sáp nhập (M&A) trong một thị trường suy thoái Mặc dù các nhà đầu tư luôn ngày càng trở lên nguyên tắc hơn trong những bản hợp đồng hiện nay của họ thì việc nâng cao chi phí mua lại và gia tăng tính cạnh tranh sẽ kiểm tra dũng khí của họ. Do đó, các cổ đông đều đang thu được một khoản hời từ bản hợp đồng tốt hơn trong thời kỳ bùng nổ M&A hiện nay so với những gì họ đã làm được trong thời gian vừa qua. Thế nên bản nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng năm 2006 đã trở thành năm được đánh giá có giá trị cao nhất trong mười năm qua (theo tỷ lệ phần trăm của các hoạt động hợp đồng) về những khoản lợi tức được trả cho các cổ đông. Nhưng với cảnh tượng không có điểm kết thúc hiện nay về việc tiêu tiền khủng khiếp thì các ban giám đốc cũng như nhà quản lý sẽ cần phải chứng tỏ được thần kinh vững vàng của mình nếu tham gia vào việc mua bán và sáp nhập công ty bởi ở đó, những tín hiệu đang được dùng để kiểm tra đều đã sẵn sàng. Để đánh giá được những xu hướng trong việc tạo ra giá trị thông qua M&A, chúng tôi đã phải rà soát lại gần 1000 công ty được dựng lên thông qua mua bán và sáp nhập trên toàn cầu, được định giá nhiều hơn 500 tỷ đô la và xuất hiện từ năm 1997 tới năm 2006. Và nhờ việc kiểm tra những động thái về giá cổ phiếu một cách nhanh chóng trước và sau mỗi một hợp đồng được đưa ra, chúng tôi có đủ khả năng để đánh giá được các thị trường tài chính đã nhìn nhận về giá trị của bản hợp đồng đó như thế nào. Trong khi ngay cả “những tác động thông cáo” đều không phải là phương tiện đánh giá hoàn hảo thì bản nghiên cứu về mặt lý thuyết lại cho thấy chúng chính là một người chỉ đường rất tốt trong việc tạo ra giá trị về mặt lâu dài. Phân tích của chúng tôi chỉ ra rằng, giá trị do các bản hợp đồng tạo ra trong thời kỳ bùng nổ M&A hiện nay (từ 2003 tới 2006) đối với cả bên mua lẫn bên bán hợp lại trung bình đạt được 6% giá trị giao dịch. Con số này cho thấy sự tương phản rõ ràng với thời kỳ bùng nổ trong khoảng thời gian từ 1997 tới 2000, khi mà trung bình chỉ đạt được 2% giá trị giao dịch. Bên cạnh đó, trong khi một điều đáng lo ngại là hơn 58% tất cả công ty được mua lại vẫn hoạt động để thanh toán cho những khoản mua lại thì con số đó đã được nâng lên tới hơn 70% cho những công ty từng hoạt động trong thời kỳ hoàng kim trước khi bùng nổ M&A. Nếu vậy thì tại sao các cổ đông lại đang có được một bản hợp đồng tốt hơn? Một trong những lời giải thích chính là những khoản lãi mua lại thấp hơn. Trong thời kỳ trước khi bùng nổ M&A, giá của khoản lãi vào khoảng 30% giá của bản hợp đồng, tính trung bình thì nhiều hơn mức 20% hiện nay một chút. Yếu tố thứ hai chính là tỷ lệ lớn hơn về các thỏa thuận tiền mặt – gần một nửa các bản hợp đồng từ 2003 tới 2006 đều yêu cầu thanh toán bằng tiền mặt so với chỉ khoảng 20 đến 30 phần trăm trong thời kỳ trước khi bùng nổ M&A. Những thị trường thích các hợp đồng tiền mặt là do các vấn đề về thuế và bởi ngay những cuộc mua bán như vậy cũng cho thấy dấu hiệu về sự chắc chắn của ban quản lý về những khoản lợi nhuận tiềm năng trong tương lai, đặc biệt nếu các công ty đang nâng cao tiền mặt thông qua nợ. Yếu tố thứ ba chính là số các hợp đồng cạnh tranh lớn hơn. Trong năm 2006, tổng giá trị những vụ thầu tự do nhiều hơn 500 tỷ đô la được đưa ra cho thấy nhiều gấp bồn lần so với bản báo cáo trước đó được đưa ra trong năm 2004. Các thị trường đều tin rằng những vụ thầu tự do đều tạo ra nhiều giá trị hơn những vụ thầu mang tính hỗ trợ. Các hợp đồng tự do trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy đã tạo ra giá trị trung bình là 11% so với chỉ 2% trong những vụ thầu hỗ trợ. Khoảng chênh lệch giữa hai tỷ lệ đó rất ý nghĩa bởi việc điều chỉnh lại thực tế đó cũng chỉ cho thấy các hợp đồng cạnh tranh thường làm ra tiền nhiều hơn. Vậy điều gì có thể giải thích được mức độ giá trị tạo ra cao hơn này? Chỉ có một lý do, đó chính là ban giám đốc đã thấy trước một cuộc chiến lợi tức có thể thường được xem xét kỹ dựa trên những chi tiết của một vụ thầu liên quan tới lĩnh vực đó và gần đây nhất trước khi họ chấp thuận nó. Bên cạnh đó, những nhà thầu cạnh tranh cũng ít cởi mở hơn nhà thầu hỗ trợ để dàn xếp các vấn đề phát sinh về quản lý, tái cơ cấu tổ chức và cả những vấn đề tiền sáp nhập khác nữa cũng như điều này giúp họ rảnh tay hơn để tạo ra giá trị. Điều đó có nghĩa rằng các hợp đồng tự do không dễ gì được thực hiện ngay và vì thế mà nó sẽ song hành cùng với một tình hình hoạt động luôn cần cảnh báo. Trong năm 2006, chỉ khoảng một nửa những vụ thầu tự do được thông báo thực sự đã thành công. Hơn nữa, việc tiếp tục cạnh tranh có thể đe dọa danh tiếng của công ty được mua lại và những cố gắng thất bại đôi khi bỏ lại chính nhà thầu với khoản lợi tức hết sức hấp dẫn. Sự cải thiện rõ ràng theo nguyên tắc của các ban giám đốc và đội quản lý thực sự gây ấn tượng đã mang đến sự cạnh tranh ngày càng gia tăng từ các hãng vốn tư nhân mà giờ đây chiếm hơn 20% hoạt động sáp nhập toàn cầu. Tuy nhiên, quyết định của các ban giám đốc và đội ngũ quản lý sẽ được kiểm định hơn nữa, cũng như các hãng vốn tư nhân từng được quản lý trước đây để thanh toán cho khoản lợi tức thấp hơn đối với những lần mua lại so với các tập đoàn ...

Tài liệu được xem nhiều: