Các công cụ phi truyền thống của chính sách tiền tệ
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 242.91 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này nhằm mục đích giới thiệu để người đọc hiểu rõ hơn về ba công cụ phi truyền thống mà NHTW một số nước đã và đang sử dụng trong thời gian vừa qua, bao gồm công cụ nới lỏng định lượng (QE), công cụ nới lỏng điều kiện tín dụng (CE) và công cụ định hướng chính sách (FG).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các công cụ phi truyền thống của chính sách tiền tệ HỘI THẢO NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG CÁC CÔNG CỤ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ThS. Nguyễn Thanh Hương Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng nth1183@yahoo.com TÓM TẮT Khi lãi suất thị trường về mức 0 hoặc gần bằng 0 (ZLB – Zero Lower Bound), Ngân hàng trung ương (NHTW) không thể tiếp tục sử dụng các công cụ truyền thống để điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) được nữa. Lý do là các kênh truyền dẫn CSTT gần như đã bị đóng băng, vốn không thể chu chuyển vì thị trường tài chính không còn đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư. Trong trường hợp đó, để có thể khơi thông lại các kênh truyền dẫn, vực dậy thị trường và kích thích kinh tế phục hồi, NHTW buộc phải sử dụng đến các công cụ phi truyền thống. Bài viết này nhằm mục đích giới thiệu để người đọc hiểu rõ hơn về ba công cụ phi truyền thống mà NHTW một số nước đã và đang sử dụng trong thời gian vừa qua, bao gồm công cụ nới lỏng định lượng (QE), công cụ nới lỏng điều kiện tín dụng (CE) và công cụ định hướng chính sách (FG). Từ khóa: công cụ phi truyền thống; chính sách tiền tệ; ngân hàng trung ương. 1. Chính sách tiền tệ và sự hạn chế của các công cụ truyền thống CSTT là tổng hòa những phương thức mà NHTW, thông qua các hoạt động của mình, tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định thị trường tài chính và đạt toàn dụng lao động. Để đạt được các mục tiêu mà CSTT hướng đến trong từng thời kỳ, NHTW thường sử dụng các công cụ truyền thống như quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất hướng dẫn, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, ấn định hạn mức tín dụng... thông qua hai đầu mối cơ bản là ngân hàng thương mại (NHTM) và thị trường mở để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến lượngcung tiền, điều chỉnh lãi suất ngắn hạn, từ đó tác động đến nền kinh tế. Cụ thể, nếu muốn gia tăng lượng cung tiền để kích thích đầu tư và chi tiêu, NHTW có thể hạ nhiệt lãi suất thị trường bằng cách giảm lãi suất hướng dẫn hoặc mua vào các chứng khoán Chính phủ. Trong trường hợp NHTW muốn giảm lượng cung tiền để kìm chế lạm phát, các công cụ này được sử dụng theo chiều hướng ngược lại. Có thể hình dung sự thay đổi trong CSTT của NHTW sẽ tác động đến nền kinh tế thông qua 2 kênh truyền dẫn chính là kênh lãi suất và kênh tín dụng. - Kênh lãi suất: Giả sử các yếu tố khác không đổi, nếu lãi suất ngắn hạn gia tăng, các mức lãi suất trung dài hạn cũng có xu hướng gia tăng theo tỷ lệ. Sự thay đổi về lãi suất ngắn hạn gây ra bởi CSTT của NHTW có thể tạo nên sự thay đổi dây chuyền ở các loại lãi suất khác và cuối cùng ảnh hưởng của nó sẽ lan truyền tới toàn bộ hệ thống lãi suất của nền kinh tế. Đường cong lãi suất lúc này sẽ bị dịch chuyển xuống ở một mức thấp hơn với độ dốc bé hơn so với trước đây. - Kênh tín dụng: Tài chính gián tiếp, cụ thể là hoạt động tín dụng của NHTM và các trung gian tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong việc tài trợ vốn cho doanh nghiệp, chính phủ và hộ gia đình. Lãi suất lại là giá cả của quyền sử dụng vốn, do đó sự thay đổi của lãi suất sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các chủ thể, thông qua đó tác động đến các quyết định chi tiêu và đầu tư. Chính vì vậy kênh tín dụng và sự tồn tại của các trung gian tài chính ảnh hưởng rất lớn đến việc truyền dẫn chính sách tiền tệ và có thể xem đây như là kênh truyền dẫn bổ sung cho kênh lãi suất. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường, sự thay đổi về lãi suất theo CSTT của NHTW sẽ được lan toả đến nền kinh tế theo các kênh truyền dẫn. Tuy nhiên, không phải lúc nào các công cụ truyền thống cũng phát huy được hiệu quả như mong đợi. Trên thực tế, các kênh 169 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG truyền dẫn của CSTT có thể bị vô hiệu hóa trong một số tình huống đặc biệt. Đối với kênh lãi suất đã đề cập ở trên, có hai trường hợp có thể xảy ra: - Lãi suất hướng dẫn đã đạt mức bằng 0: Trong trường hợp này, NHTW không thể tiếp tục sử dụng công cụ lãi suất để kích thích đầu tư và tiêu dùng được nữa. Cụ thể, lãi suất hướng dẫn không thể hạ thêm vì không thể nhận giá trị âm. NHTW mất khả năng ảnh hưởng đến lãi suất thực dựa trên lãi suất hướng dẫn. - Lãi suất không ở mức bằng 0, nhưng NHTW vẫn không thể hạ thêm lãi suất: Đây là trường hợp khi nền kinh tế rơi vào tình trạng “bẫy thanh khoản”. Thông thường khi có thêm lượng cung tiền đi vào nền kinh tế, nhà đầu tư sẽ mua trái phiếu làm giảm lãi suất, nhưng điều này không thể xảy ra nếu lợi tức của các trái phiếu đã cực thấp hoặc việc nắm giữ các trái phiếu này trở nên quá rủi ro. Trong trường hợp này thay vì bỏ tiền mua trái phiếu thì các tác nhân kinh tế muốn nắm giữ tiền mặt hơn. Giá trái phiếu không thể tăng vàlãi suất không thể giảm hơn được nữa mặc dù nền kinh tế đang có sự gia tăng cung tiền. Tương tự, việc truyền dẫn chính sách tiền tệ có thể không thực hiện được qua kênh tín dụng khi hệ thống ngân hàng không còn hoạt động bình thường được nữa và dòng chảy tín dụng cung cấp cho nền kinh tế bị chậm lại hoặc gián đoạn. Cụ thể: - Ngân hàng ghi nhận mất vốn, ví dụ như do cho vay dưới chuẩn nên không thể thu hồi vốn. Khi nguồn vốn bị giảm, các ngân hàng cũng giảm khả năng cho vay. - Kinh tế suy thoái, điều kiện kinh tế xấu đi làm hoạt động tín dụng trở nên rủi ro và người thừa tiền ngần ngại hơn trong việc cung ứng vốn. - Kinh tế bất ổn làm gia tăng phần bù rủi ro. Chi phí vốn của các ngân hàng vì vậy cũng gia tăng làm cản trở việc vay vốn của người cần vốn. - Thị trường liên ngân hàng, nơi tái ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các công cụ phi truyền thống của chính sách tiền tệ HỘI THẢO NGÂN HÀNG VIỆT NAM: BỐI CẢNH VÀ TRIỂN VỌNG CÁC CÔNG CỤ PHI TRUYỀN THỐNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ThS. Nguyễn Thanh Hương Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng nth1183@yahoo.com TÓM TẮT Khi lãi suất thị trường về mức 0 hoặc gần bằng 0 (ZLB – Zero Lower Bound), Ngân hàng trung ương (NHTW) không thể tiếp tục sử dụng các công cụ truyền thống để điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) được nữa. Lý do là các kênh truyền dẫn CSTT gần như đã bị đóng băng, vốn không thể chu chuyển vì thị trường tài chính không còn đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư. Trong trường hợp đó, để có thể khơi thông lại các kênh truyền dẫn, vực dậy thị trường và kích thích kinh tế phục hồi, NHTW buộc phải sử dụng đến các công cụ phi truyền thống. Bài viết này nhằm mục đích giới thiệu để người đọc hiểu rõ hơn về ba công cụ phi truyền thống mà NHTW một số nước đã và đang sử dụng trong thời gian vừa qua, bao gồm công cụ nới lỏng định lượng (QE), công cụ nới lỏng điều kiện tín dụng (CE) và công cụ định hướng chính sách (FG). Từ khóa: công cụ phi truyền thống; chính sách tiền tệ; ngân hàng trung ương. 1. Chính sách tiền tệ và sự hạn chế của các công cụ truyền thống CSTT là tổng hòa những phương thức mà NHTW, thông qua các hoạt động của mình, tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định thị trường tài chính và đạt toàn dụng lao động. Để đạt được các mục tiêu mà CSTT hướng đến trong từng thời kỳ, NHTW thường sử dụng các công cụ truyền thống như quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất hướng dẫn, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, ấn định hạn mức tín dụng... thông qua hai đầu mối cơ bản là ngân hàng thương mại (NHTM) và thị trường mở để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến lượngcung tiền, điều chỉnh lãi suất ngắn hạn, từ đó tác động đến nền kinh tế. Cụ thể, nếu muốn gia tăng lượng cung tiền để kích thích đầu tư và chi tiêu, NHTW có thể hạ nhiệt lãi suất thị trường bằng cách giảm lãi suất hướng dẫn hoặc mua vào các chứng khoán Chính phủ. Trong trường hợp NHTW muốn giảm lượng cung tiền để kìm chế lạm phát, các công cụ này được sử dụng theo chiều hướng ngược lại. Có thể hình dung sự thay đổi trong CSTT của NHTW sẽ tác động đến nền kinh tế thông qua 2 kênh truyền dẫn chính là kênh lãi suất và kênh tín dụng. - Kênh lãi suất: Giả sử các yếu tố khác không đổi, nếu lãi suất ngắn hạn gia tăng, các mức lãi suất trung dài hạn cũng có xu hướng gia tăng theo tỷ lệ. Sự thay đổi về lãi suất ngắn hạn gây ra bởi CSTT của NHTW có thể tạo nên sự thay đổi dây chuyền ở các loại lãi suất khác và cuối cùng ảnh hưởng của nó sẽ lan truyền tới toàn bộ hệ thống lãi suất của nền kinh tế. Đường cong lãi suất lúc này sẽ bị dịch chuyển xuống ở một mức thấp hơn với độ dốc bé hơn so với trước đây. - Kênh tín dụng: Tài chính gián tiếp, cụ thể là hoạt động tín dụng của NHTM và các trung gian tài chính đóng vai trò rất quan trọng trong việc tài trợ vốn cho doanh nghiệp, chính phủ và hộ gia đình. Lãi suất lại là giá cả của quyền sử dụng vốn, do đó sự thay đổi của lãi suất sẽ ảnh hưởng đến việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các chủ thể, thông qua đó tác động đến các quyết định chi tiêu và đầu tư. Chính vì vậy kênh tín dụng và sự tồn tại của các trung gian tài chính ảnh hưởng rất lớn đến việc truyền dẫn chính sách tiền tệ và có thể xem đây như là kênh truyền dẫn bổ sung cho kênh lãi suất. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển bình thường, sự thay đổi về lãi suất theo CSTT của NHTW sẽ được lan toả đến nền kinh tế theo các kênh truyền dẫn. Tuy nhiên, không phải lúc nào các công cụ truyền thống cũng phát huy được hiệu quả như mong đợi. Trên thực tế, các kênh 169 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG truyền dẫn của CSTT có thể bị vô hiệu hóa trong một số tình huống đặc biệt. Đối với kênh lãi suất đã đề cập ở trên, có hai trường hợp có thể xảy ra: - Lãi suất hướng dẫn đã đạt mức bằng 0: Trong trường hợp này, NHTW không thể tiếp tục sử dụng công cụ lãi suất để kích thích đầu tư và tiêu dùng được nữa. Cụ thể, lãi suất hướng dẫn không thể hạ thêm vì không thể nhận giá trị âm. NHTW mất khả năng ảnh hưởng đến lãi suất thực dựa trên lãi suất hướng dẫn. - Lãi suất không ở mức bằng 0, nhưng NHTW vẫn không thể hạ thêm lãi suất: Đây là trường hợp khi nền kinh tế rơi vào tình trạng “bẫy thanh khoản”. Thông thường khi có thêm lượng cung tiền đi vào nền kinh tế, nhà đầu tư sẽ mua trái phiếu làm giảm lãi suất, nhưng điều này không thể xảy ra nếu lợi tức của các trái phiếu đã cực thấp hoặc việc nắm giữ các trái phiếu này trở nên quá rủi ro. Trong trường hợp này thay vì bỏ tiền mua trái phiếu thì các tác nhân kinh tế muốn nắm giữ tiền mặt hơn. Giá trái phiếu không thể tăng vàlãi suất không thể giảm hơn được nữa mặc dù nền kinh tế đang có sự gia tăng cung tiền. Tương tự, việc truyền dẫn chính sách tiền tệ có thể không thực hiện được qua kênh tín dụng khi hệ thống ngân hàng không còn hoạt động bình thường được nữa và dòng chảy tín dụng cung cấp cho nền kinh tế bị chậm lại hoặc gián đoạn. Cụ thể: - Ngân hàng ghi nhận mất vốn, ví dụ như do cho vay dưới chuẩn nên không thể thu hồi vốn. Khi nguồn vốn bị giảm, các ngân hàng cũng giảm khả năng cho vay. - Kinh tế suy thoái, điều kiện kinh tế xấu đi làm hoạt động tín dụng trở nên rủi ro và người thừa tiền ngần ngại hơn trong việc cung ứng vốn. - Kinh tế bất ổn làm gia tăng phần bù rủi ro. Chi phí vốn của các ngân hàng vì vậy cũng gia tăng làm cản trở việc vay vốn của người cần vốn. - Thị trường liên ngân hàng, nơi tái ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương Công cụ nới lỏng điều kiện tín dụng Công cụ định hướng chính sách Thị trường tài chínhGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Thị trường chứng khoán: Phần 1 - PGS.TS. Bùi Kim Yến, TS. Thân Thị Thu Thủy
281 trang 970 34 0 -
2 trang 515 13 0
-
2 trang 350 13 0
-
203 trang 343 13 0
-
293 trang 294 0 0
-
Giáo trình Kinh tế vĩ mô 1: Phần 1 - ĐH Thương mại
194 trang 273 0 0 -
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 269 0 0 -
38 trang 245 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 242 1 0 -
Một số vấn đề về lời nguyền tiền mặt: Phần 2
118 trang 229 0 0