Bệnh béo phì ngày càng gia tăng ở trẻ em, bệnh béo phì cũng là nguyên nhân gây ra một số bệnh tim mạch, tiểu đườngNguyên nhân của căn bệnh béo phì ở trẻ em là gì? Bệnh béo phì ở trẻ em có nguyên nhân trước tiên là do yếu tố di truyền bẩm sinh, nguy cơ mắc chứng béo phì ở trẻ em tăng gấp 4 lần nếu một trong hai cha mẹ của trẻ bị béo phì và sẽ tăng gấp 8 lần nếu cả hai đều béo phì. Ban đầu căn bệnh này cũng có thể...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các hậu quả của bệnh béo phì ở trẻ emCác hậu quả của bệnh béo phì ở trẻ emBệnh béo phì ngày càng gia tăng ở trẻ em, bệnh béo phì cũng là nguyênnhân gây ra một số bệnh tim mạch, tiểu đườngNguyên nhân của căn bệnh béo phì ở trẻ em là gì?Bệnh béo phì ở trẻ em có nguyên nhân trước tiên là do yếu tố di truyềnbẩm sinh, nguy cơ mắc chứng béo phì ở trẻ em tăng gấp 4 lần nếu mộttrong hai cha mẹ của trẻ bị béo phì và sẽ tăng gấp 8 lần nếu cả hai đềubéo phì. Ban đầu căn bệnh này cũng có thể có nguồn gốc tâm lý; một embé lúc đầu “ốm yếu” có thể được hưởng một sự bù đắp, bồi dưỡng bằngmột sự ăn uống, tẩm bổ quá mức, kéo dài... coi như một sự tăng cườngthể chất... có thể dẫn trẻ đến béo phì. Một nguyên nhân rất quan trọngnữa là sự thiếu hoặc ít hoạt động thể lực, gây ra sự tồn đọng các chấtsinh nhiệt lượng các bu ran (carburants) dư thừa, tích lại dưới dạng cáckhối mỡ. Vấn đề này thường thấy ở các trẻ em suốt ngày gắn mình vàotivi, máy vi tính... Cuối cùng là thói quen ăn uống thiếu khoa học của giađình đóng một vai trò rất quan trọng: các bữa ăn quá thịnh soạn, quánhiều món thịt, cá, sơn hào, hải vị... Ngoài ra, nguyên nhân ít gặp là docác căn bệnh về nội tiết như sự hoạt động không tốt của các tuyếnthượng thận hoặc tuyến giáp, hội chứng di truyền về nội tiết có tên làPrader-Willi.Béo phì ảnh hưởng tâm lý và sức khỏe của trẻ như thế nào?Các nguy cơ do bệnh béo phì gây ra ở trẻ em tùy mức độ có thể dẫn tớinhững bất lợi ít nhiều nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến chất lượngcuộc sống và tương lai của trẻ.Điều bất lợi đầu tiên thuộc về lĩnh vực tâm lý – xã hội. Trẻ quá béo sẽchịu đựng những “cái nhìn” thiếu thiện cảm của mọi người, điều có thểđưa tới một sự khó chịu, khổ tâm sâu sắc.Khi đến tuổi trưởng thành, các vấn đề liên quan đến sự rối loạn lipid(mỡ) sẽ xuất hiện bên cạnh những triệu chứng khác như: tăngcholesterol, mỡ máu cao (hypercholestérolémie) hoặc một sự tiết dưthừa quá mức chất insulin có thể dẫn đến tiểu đường sau này. Như vậychứng béo phì ở trẻ em là nguồn gốc phát sinh các biến chứng nghiêmtrọng ở tuổi trưởng thành: hội chứng tim mạch, bệnh tiểu đường, tănghuyết áp, rối loạn tuần hoàn não..., hô hấp, biến chứng chỉnh hình cácchi dưới (complications orthpédiques)..., từ đó nhất thiết phải giảm mộtcách tuyệt đối, càng sớm càng tốt sự thừa cân của trẻ em.Cách phát hiện, chữa trị và đề phòng béo phì ở trẻ emTừ tuổi lên 2 hoặc 3 đã có thể phát hiện ra một sự tăng cân ở trẻ rồi. Tuynhiên ở những trẻ hơi mập quá, cũng chưa đáng phải lo ngại. Cách pháthiện chính là nhờ sự theo dõi, giám sát đường cong đồ thị biểu diễn cácchỉ số cơ thể (indice corporelle) của cơ thể. Chỉ số cơ thể (c.s.c.t) đượcđo bằng tỷ số:C.s.c.t = cân nặng (tính bằng kg/chiều cao (tính bằng M)2Đồ thị ghi sự biến đổi của các chỉ số cơ thể của trẻ phải được ghi lại theothời gian thường là 1 tháng 1 lần và có được sự theo dõi, giám sát củathầy thuốc nhi khoa hằng năm. Hơn 50% trẻ em béo phì ở tuổi lên 6, sẽvẫn béo phì ở tuổi trưởng thành; nếu trẻ vẫn bị béo phì ở tuổi lên 10 thìcó đến 70-80% số cháu sẽ vẫn rơi vào tình trạng đó khi lớn lên.Biện pháp ngăn ngừa bệnh béo phì ở trẻ em là gì?Để ngăn chặn chứng béo phì ở trẻ em, cần tác động lên 2 lĩnh vực: lĩnhvực ăn và uống và lĩnh vực tiêu hao vật chất (dépeuse physique).Đối với vấn đề ăn uống, khó khăn đầu tiên của bác sĩ nhi khoa thườnggặp là phải thuyết phục cha mẹ trẻ thay đổi cách nuôi dưỡng giúp trẻgiảm cân. Cha mẹ trẻ có thể tham khảo một số gợi ý sau:- Tôn trọng một nhịp độ (rytsme) 4 bữa ăn/ngày (kể cả bữa ăn phụ, nhẹ(legouter) đầu buổi chiều, kiên quyết loại bỏ thói quen ăn vặt(gugnotage) quà, bánh kẹo...- Tăng cường ăn rau quả, lý tưởng nhất là 5 trái cây, rau/ngày.- Hạn chế các món ăn giàu protein (đạm) như thịt, cá, trứng... chỉ 1lần/ngày.- Thay thế những loại bánh kem, bánh quy, bánh ngọt, gatô bằng bánhmì trắng, các loại bánh mì làm bằng bột gạo lức (pain complet), tránhcác loại bánh xốp (có nhiều ruột) có đường, sữa, chất béo (pain demie)...- Hạn chế sự tiêu thụ các loại phomat khô, chỉ nên dùng 1 lát/ngày và ưutiên cho các loại sữa chua (yaourts) ở các bữa ăn khác.- Không nên bỏ các chất tinh bột (féculents): cơm, bột gạo, bánh mì,khoai tây... cần có ở các bữa ăn để trẻ khỏi ăn vặt kẹo, bánh ngọt...Điều quan trọng cần chú ý là làm sao đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡnghợp lý và cần thiết của trẻ ở các lứa tuổi trong khẩu phần ăn hàng ngày.Ở tuổi lên 1, khẩu phần chất protein (đạm) của trẻ chỉ khoảng 30g/ngày,đến 4-5 tuổi là 50g/ngày, đến năm 12 tuổi là 100-120g/ngày.Về hoạt động thể chất, phải cho trẻ tiến hành các hoạt động hàng ngày:tập thể dục, leo cầu thang bộ, đi bộ tới trường, tham gia tối đa các hoạtđộng dã ngoại (cắm trại, leo núi, bơi lội...), hoạt động thể lực, chân taytối thiểu 1 tiếng/ngày. ...