Các ổ chảy máu não vi thể: Chúng thực sự có khả năng dự báo chảy máu lớn hay không
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 277.25 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Ngày càng có nhiều bằng chứng kết nối các ổ chảy máu vi thể với chảy máu lớn ở một số quần thể bệnh nhân được lựa chọn. Tuy nhiên, dữ liệu tiến cứu ở những quần thể không được chọn lựa thường hiếm. Tỷ lệ các ổ chảy máu vi thể cao và tỷ lệ chảy máu não tương đối thấp gợi ý có thể chỉ một số nhóm bệnh nhân có các ổ chảy máu vi thể sẽ tiến triển thành chảy máu lớn. Điều này có thể liên quan tới độ nặng và bản chất của bệnh lý mạch máu tiềm ẩn.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các ổ chảy máu não vi thể: Chúng thực sự có khả năng dự báo chảy máu lớn hay không Leading opinionsCác ổ chảy máu não vi thể: chúng thực sự có khả năng dựbáo chảy máu lớn hay không?Cerebral microbleeds: do they really predict macrobleeding?Meike W. Vernooij Translated by Dr. Trần Viết Lực Revised by Prof. Lê Văn ThínhNgày càng có nhiều bằng chứng kết nối các ổ chảy máu vi thể dự báo nguy cơ chảy máu não có triệuthể với chảy máu lớn ở một số quần thể bệnh nhân đượclựa chọn. Tuy nhiên, dữ liệu tiến cứu ở những quần thể chứng. Nhưng chúng có khả năng đó không?không được chọn lựa thường hiếm. Tỷ lệ các ổ chảy máu vithể cao và tỷ lệ chảy máu não tương đối thấp gợi ý có thể Bản thân tôi tin rằng các ổ chảy máu vichỉ một số nhóm bệnh nhân có các ổ chảy máu vi thể sẽ thể có thể dự báo chảy máu lớn, mặc dù chắctiến triển thành chảy máu lớn. Điều này có thể liên quantới độ nặng và bản chất của bệnh lý mạch máu tiềm ẩn. Do chắn chúng ta cần có các bằng chứng bổvậy, các nghiên cứu trong tương lai nên sử dụng thiết kế sung trước khi rút ra kết luận. Những chứngtheo dõi dọc và không chỉ tập trung vào sự hiện diện củaổ chảy máu vi thể, mà còn chú ý tới vị trí và số lượng các cứ đầu tiên xuất hiện trong các nghiên cứuổ chảy máu vi thể. cắt ngang đánh giá mối liên quan của các ổTừ khóa: dịch tễ học, chảy máu não, chảy máu vi thể, MRI. chảy máu vi thể với ICH trong một số quần thể bệnh nhân được lựa chọn, những bệnh Các ổ chảy máu não vi thể là các ổ giảm nhân trước đó đã bị đột quỵ. Ví dụ: ở cáctín hiệu nhỏ trên các lớp cắt của phim cộng bệnh nhân ICH, người ta gặp các ổ chảy máuhưởng từ. Những hình ảnh này là phương vi thể ở khu vực lân cận ổ máu tụ, và sự hiệnpháp tối ưu để quan sát các sản phẩm giáng diện của chúng liên quan tới cả kích thước vàhóa của máu-được mô tả lần đầu tiên vào tiên lượng xấu của chảy máu não [3,4]. Mộtgiữa thập kỷ 90, thế kỷ trước [1]. Mặc dù ban điểm lưu ý quan trọng khác là có sự songđầu được nhìn nhận như một cấu trúc não hành rất rõ giữa các yếu tố nguy cơ đối vớitrên chẩn đoán hình ảnh, nhưng kể từ khi chảy máu vi thể và chảy máu lớn, các yếu tốcó các nghiên cứu tương quan chẩn đoán này khác nhau tùy thuộc vào vị trí trong não:hình ảnh-bệnh học, người ta đã khẳng địnhcác điểm này tương ứng với sự lắng đọng tăng huyết áp liên quan rất mật thiết đến cảcủa hemosiderin xung quanh các mạch máu chảy máu vi thể sâu và chảy máu não khunhỏ trong não [2].Tuy nhiên, chúng tôi cho vực sâu trong khi APOE4 là yếu tố nguy cơrằng các ổ chảy máu vi thể đại diện cho sự của cả chảy máu não lớn và chảy máu vi thểthoát quản các sản phẩm giáng hóa máu qua ở thùy (trong bệnh động mạch não nhiễmthành các mạch nhỏ đã bị suy yếu. Điều này bột)[5]. Tôi nghĩ rằng những phát hiện nàyphản ánh bệnh lý động mạch dễ chảy máu. gợi ý chắc chắn mối liên hệ giữa các ổ chảyHậu quả, người ta cố gắng thừa nhận các ổ máu vi thể và chảy máu lớn, mặc dù nhữngchảy máu vi thể não làm gia tăng nguy cơ nghiên cứu cắt ngang này chỉ cung cấp đượcchảy máu não (ICH) có triệu chứng, hoặc có các bằng chứng gián tiếp. Tuy vậy, người ta không thể loại trừ có yếu tố thứ ba tham giaCorrespondence: Meike W. Vernooij, Departments of Radiology andEpidemiology, Erasmus University Medical Center, ’s-Gravendijkwal vào mối liên hệ giữa hai vấn đề này hay sự230, Rotterdam 3015 CE ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các ổ chảy máu não vi thể: Chúng thực sự có khả năng dự báo chảy máu lớn hay không Leading opinionsCác ổ chảy máu não vi thể: chúng thực sự có khả năng dựbáo chảy máu lớn hay không?Cerebral microbleeds: do they really predict macrobleeding?Meike W. Vernooij Translated by Dr. Trần Viết Lực Revised by Prof. Lê Văn ThínhNgày càng có nhiều bằng chứng kết nối các ổ chảy máu vi thể dự báo nguy cơ chảy máu não có triệuthể với chảy máu lớn ở một số quần thể bệnh nhân đượclựa chọn. Tuy nhiên, dữ liệu tiến cứu ở những quần thể chứng. Nhưng chúng có khả năng đó không?không được chọn lựa thường hiếm. Tỷ lệ các ổ chảy máu vithể cao và tỷ lệ chảy máu não tương đối thấp gợi ý có thể Bản thân tôi tin rằng các ổ chảy máu vichỉ một số nhóm bệnh nhân có các ổ chảy máu vi thể sẽ thể có thể dự báo chảy máu lớn, mặc dù chắctiến triển thành chảy máu lớn. Điều này có thể liên quantới độ nặng và bản chất của bệnh lý mạch máu tiềm ẩn. Do chắn chúng ta cần có các bằng chứng bổvậy, các nghiên cứu trong tương lai nên sử dụng thiết kế sung trước khi rút ra kết luận. Những chứngtheo dõi dọc và không chỉ tập trung vào sự hiện diện củaổ chảy máu vi thể, mà còn chú ý tới vị trí và số lượng các cứ đầu tiên xuất hiện trong các nghiên cứuổ chảy máu vi thể. cắt ngang đánh giá mối liên quan của các ổTừ khóa: dịch tễ học, chảy máu não, chảy máu vi thể, MRI. chảy máu vi thể với ICH trong một số quần thể bệnh nhân được lựa chọn, những bệnh Các ổ chảy máu não vi thể là các ổ giảm nhân trước đó đã bị đột quỵ. Ví dụ: ở cáctín hiệu nhỏ trên các lớp cắt của phim cộng bệnh nhân ICH, người ta gặp các ổ chảy máuhưởng từ. Những hình ảnh này là phương vi thể ở khu vực lân cận ổ máu tụ, và sự hiệnpháp tối ưu để quan sát các sản phẩm giáng diện của chúng liên quan tới cả kích thước vàhóa của máu-được mô tả lần đầu tiên vào tiên lượng xấu của chảy máu não [3,4]. Mộtgiữa thập kỷ 90, thế kỷ trước [1]. Mặc dù ban điểm lưu ý quan trọng khác là có sự songđầu được nhìn nhận như một cấu trúc não hành rất rõ giữa các yếu tố nguy cơ đối vớitrên chẩn đoán hình ảnh, nhưng kể từ khi chảy máu vi thể và chảy máu lớn, các yếu tốcó các nghiên cứu tương quan chẩn đoán này khác nhau tùy thuộc vào vị trí trong não:hình ảnh-bệnh học, người ta đã khẳng địnhcác điểm này tương ứng với sự lắng đọng tăng huyết áp liên quan rất mật thiết đến cảcủa hemosiderin xung quanh các mạch máu chảy máu vi thể sâu và chảy máu não khunhỏ trong não [2].Tuy nhiên, chúng tôi cho vực sâu trong khi APOE4 là yếu tố nguy cơrằng các ổ chảy máu vi thể đại diện cho sự của cả chảy máu não lớn và chảy máu vi thểthoát quản các sản phẩm giáng hóa máu qua ở thùy (trong bệnh động mạch não nhiễmthành các mạch nhỏ đã bị suy yếu. Điều này bột)[5]. Tôi nghĩ rằng những phát hiện nàyphản ánh bệnh lý động mạch dễ chảy máu. gợi ý chắc chắn mối liên hệ giữa các ổ chảyHậu quả, người ta cố gắng thừa nhận các ổ máu vi thể và chảy máu lớn, mặc dù nhữngchảy máu vi thể não làm gia tăng nguy cơ nghiên cứu cắt ngang này chỉ cung cấp đượcchảy máu não (ICH) có triệu chứng, hoặc có các bằng chứng gián tiếp. Tuy vậy, người ta không thể loại trừ có yếu tố thứ ba tham giaCorrespondence: Meike W. Vernooij, Departments of Radiology andEpidemiology, Erasmus University Medical Center, ’s-Gravendijkwal vào mối liên hệ giữa hai vấn đề này hay sự230, Rotterdam 3015 CE ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Chảy máu não Chảy máu vi thể Bệnh lý mạch máu Bệnh động mạch não nhiễm bột Bệnh lý động mạch nãoGợi ý tài liệu liên quan:
-
595 trang 21 0 0
-
Phẫu thuật bệnh học thần kinh: Phần 1
402 trang 20 0 0 -
Cập nhật phân loại các bất thường mạch máu
10 trang 19 0 0 -
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị đột quỵ não
60 trang 18 0 0 -
Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh học và kết quả điều trị ở bệnh nhân nhồi máu não có rung nhĩ
4 trang 15 0 0 -
6 trang 14 0 0
-
Bài giảng Bệnh lý mạch máu não - Phạm Minh Thông
40 trang 14 0 0 -
7 trang 14 0 0
-
9 trang 13 0 0
-
Ứng dụng thang điểm Essen trong tiên lượng bệnh nhân chảy máu não
8 trang 13 0 0