Danh mục

Các rào cản trong tiếp cận tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh khu vực nông nghiệp - nông thôn

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 236.91 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết tiếp cận dưới góc độ logic các rào cản hạn chế cơ hội tiếp cận tín dụng ngân hàng của các Doanh nghiệp siêu nhỏ và Hộ kinh doanh ở khu vực nông thôn và nêu một số hàm ý chính sách nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của các rào cản nói trên. Theo đó, có ba rào cản chính: sự chi phối nhiều hơn của tình trạng thông tin bất đối xứng; bất lợi về chi phí; năng lực tiếp cận tín dụng ngân hàng của bản thân các chủ thể vay vốn. Các phân tích về nhận diện bản chất của các rào cản cho phép rút ra các hàm ý về chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm bù đắp các bất lợi trong các giao dịch theo nguyên tắc thị trường; chính sách định hướng đầu tư và chính sách phân bố mạng lưới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các rào cản trong tiếp cận tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh khu vực nông nghiệp - nông thôn CÁC RÀO CẢN TRONG TIẾP CẬN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP SIÊU NHỎ VÀ HỘ KINH DOANH KHU VỰC NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN PGS.TS. Lâm Chí Dũng Đại học Kinh tế Đà Nẵng Tóm tắt Bài viết tiếp cận dưới góc độ logic các rào cản hạn chế cơ hội tiếp cận tín dụng ngân hàng của các Doanh nghiệp siêu nhỏ và Hộ kinh doanh ở khu vực nông thôn và nêu một số hàm ý chính sách nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực của các rào cản nói trên. Theo đó, có ba rào cản chính: sự chi phối nhiều hơn của tình trạng thông tin bất đối xứng; bất lợi về chi phí; năng lực tiếp cận tín dụng ngân hàng của bản thân các chủ thể vay vốn. Các phân tích về nhận diện bản chất của các rào cản cho phép rút ra các hàm ý về chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm bù đắp các bất lợi trong các giao dịch theo nguyên tắc thị trường; chính sách định hướng đầu tư và chính sách phân bố mạng lưới. Từ khóa: rào cản; tiếp cận tín dụng ngân hàng; Doanh nghiệp siêu nhỏ nông thôn; chính sách hỗ trợ tín dụng nông nghiệp - nông thôn. 1. Đặt vấn đề Các Doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh đều có những đặc điểm chung về quy mô, sự khác biệt chỉ là ở tƣ cách pháp lý. Cả hai loại hình này đều đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế nông thôn Việt Nam do chúng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Do những khó khăn hiển nhiên trong việc tiếp cận thị trƣờng chứng khoán, nguồn tài trợ cho hai loại hình này chủ yếu đến từ tín dụng ngân hàng. Xuất phát từ nhận thức về việc hỗ trợ kinh tế nông thôn trong tiến trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trƣờng, đã có những cố gắng rất lớn từ phía Nhà nƣớc về nhiều phƣơng diện - từ chính sách cho đến nguồn lực nhằm gia tăng cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vẫn tồn tại những trở ngại lớn trong việc tiếp cận tín dụng ngân hàng một cách hiệu quả của các doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh tại khu vực nông thôn. 51 Vì vậy, cần nhận diện những rào cản khách quan hạn chế cơ hội tiếp cận tín dụng ngân hàng của hai loại hình kinh doanh nói trên. Theo Nghị định 39/2018/CP (11/3/2018) của Chính phủ, tiêu chí xác định Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực công nghiệp, xây dựng là doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 ngƣời và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng; trong lĩnh vực thƣơng mại, dịch vụ là doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 ngƣời và tổng doanh thu của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng. Tƣơng tự, căn cứ Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP hƣớng dẫn về thủ tục đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp 2014 có thể xác định Hộ kinh doanh là đơn vị kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm ngƣời gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, sử dụng dƣới mƣời lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Nhƣ vậy Doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh có điểm chung là số lao động sử dụng không quá 10 ngƣời. Luật Doanh nghiệp nói trên cũng quy định những hộ kinh doanh sử dụng từ 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp. Trên thực tế, về phƣơng diện pháp lý, các giao dịch tín dụng ngân hàng của hộ kinh doanh theo Thông tƣ 39/2016/TT-NHNN phải đƣợc thực hiện với tƣ cách cá nhân. Điều này dẫn đến hệ quả trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, về pháp lý không có sự khác biệt giữa hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh. Xuất phát từ hai đặc điểm chung cơ bản là quy mô nhỏ và hoạt động tại khu vực nông thôn, những phân tích logic cho thấy trong quan hệ tín dụng ngân hàng tồn tại những rào cản chủ yếu sau: 2.1. Sự chi phối nhiều hơn của tình trạng thông tin bất đối xứng Thông tin bất đối xứng là tình trạng chung của nhiều thị trƣờng. Đó là trạng thái không cân bằng trong cơ cấu thông tin giữa các chủ thể giao dịch có mức độ nắm giữ thông tin không ngang bằng nhau. Theo đó, thị trƣờng tín dụng ngân hàng luôn tồn tại tình trạng này ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, xét 52 trong tƣơng quan với các Doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động ở khu vực thành thị, đối với các giao dịch tín dụng của Ngân hàng (NH) với các Doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh ở nông thôn (từ đây gọi chung DNSN NT), tình trạng này có mức độ nghiêm trọng hơn. Điều này xuất phát từ tình trạng thiếu chuyên nghiệp trong quản trị điều hành, đặc biệt nổi rõ trong khâu hạch toán mang tính chất sơ lƣợc, giản đơn và rất nghiệp dƣ, thậm chí nhiều cơ sở kinh doanh hầu nhƣ không có khái niệm hạch toán kế toán theo những nguyên tắc và chuẩn mực chung. Thông tin thiếu chuẩn xác, không đƣợc kiểm toán, không đầy đủ là phỗ biến. Mặt khác, việc dự báo là vô cùng khó khăn. Hệ quả là mức độ kiểm soát thông tin của NH đối với DNSN NT kém hơn dẫn đến cả hai hệ quả của tình trạng thông tin bất đối xứng đều nghiêm trọng hơn. Một mặt, việc sàng lọc ngƣời vay khó hơn tức lựa chọn đối nghịch (Adverse selection) dễ xảy ra hơn. Mặt khác, việc giám sát ngƣời vay sau giải ngân cũng trở nên khó hơn tức rủi ro đạo đức (Moral hazard) gia tăng. Tổng quát, sự chi phối nhiều hơn của trình trạng thông tin bất đối xứng sẽ làm cho việc tiếp cận tín dụng của các DNSN NT trở nên khó hơn vì: - Gia tăng rủi ro do tình trạng thiếu thông tin làm gia tăng sự không chắc chắn trong các quyết định tín dụng của NH. - Gia tăng chi phí sản xuất thông tin của NH nhằm sàng lọc v ...

Tài liệu được xem nhiều: