Danh mục

Các thành phần của miễn dịch bẩm sinh (Kỳ 2)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 240.57 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các tế bào mono thì chiếm tỷ lệ thấp hơn so với các bạch cầu trung tính trong máu. Tỷ lệ các tế bào mono trong máu vào khoảng 500 đến 1.000 tế bào/ 1 mm3 máu. Các tế bào này cũng nuốt các vi sinh vật trong máu và ở các mô. Khác với các bạch cầu trung tính, các tế bào mono sau khi thoát mạch vào các mô thì tồn tại ở đó lâu hơn. Tại các mô, các tế bào mono biệt hoá thành các tế bào có tên gọi là đại thực bào. Các...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các thành phần của miễn dịch bẩm sinh (Kỳ 2) Các thành phần của miễn dịch bẩm sinh (Kỳ 2) Các tế bào mono thì chiếm tỷ lệ thấp hơn so với các bạch cầu trung tínhtrong máu. Tỷ lệ các tế bào mono trong máu vào khoảng 500 đến 1.000 tế bào/ 1mm3 máu. Các tế bào này cũng nuốt các vi sinh vật trong máu và ở các mô. Khácvới các bạch cầu trung tính, các tế bào mono sau khi thoát mạch vào các mô thìtồn tại ở đó lâu hơn. Tại các mô, các tế bào mono biệt hoá thành các tế bào có têngọi là đại thực bào. Các tế bào mono trong máu và các đại thực bào ở các mô làhai giai đoạn của cùng một dòng tế bào và vì thế chúng thường được gọi là hệthống các tế bào đơn nhân làm nhiệm vụ thực bào. Các đại thực bào cư trú trongcác mô liên kết và trong tất cả các cơ quan của cơ thể, tại đó chúng có cùng chứcnăng như những tế bào đơn nhân làm nhiệm vụ thực bào vừa mới được điều độngtừ máu vào mô. Hình 2.4: Các giai đoạn chín của các tế bào đơn nhân làm nhiệm vụ thựcbào Cách thức mà các bạch cầu trung tính và tế bào mono thoát mạch để vàomô nơi đang diễn ra nhiễm trùng đó là chúng bám vào các phân tử kết dính trêncác tế bào nội mô của mạch máu dưới tác động của những chất hoá hướng độngđược tạo ra khi vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể. Cụ thể là khi vi sinh vật lâynhiễm vượt qua được lớp biểu mô vào lớp mô bên dưới thì các đại thực bào cư trúở đó sẽ nhận diện các vi sinh vật đó và đáp ứng lại bằng cách tạo ra các proteinhoà tan được gọi là các cytokine (sẽ được mô tả chi tiết trong phần sau). Hai trongsố các cytokine này là yếu tố hoại tử u (tumor necrosis factor – viết tắt là TNF) vàinterleukin-1 (viết tắt là IL-1) tác động lên các tế bào nội mô của các mạch máunhỏ tại vị trí nhiễm trùng. Các cytokine này sẽ kích thích các tế bào nội mô củamạch máu nhanh chóng bộc lộ hai phân tử kết dính có tên gọi là E-selectin và P-selectin (tên gọi “selectin” ám chỉ đặc tính của các phân tử này là gắn vào cáccarbohydrate, một thuộc tính giống như của lectin). Các bạch cầu trung tính và cáctế bào mono trong máu lại có các phân tử carbohydrate trên bề mặt của chúng nênchúng sẽ bám nhẹ vào các phân tử selectin và vì thế các bạch cầu trung tính giốngnhư được “buộc” vào lớp nội mô của mạch máu. Do chúng chỉ được buộc nhẹ nênkhi dòng máu chảy qua mạch máu đó sẽ làm đứt mối buộc ấy nhưng sau đó mốibuộc khác lại được thiết lập vì trên mỗi bạch cầu trung tính có nhiều phân tửcarbohydrate và trên nội mô cũng có nhiều phân tử selectin để cho chúng bám vào.Cứ như vậy tế bào bạch cầu giống như là “lăn” trên bề mặt của nội mô. Trong khiđó các tế bào bạch cầu lại còn có các phân tử kết dính khác có tên là các integrindo các phân tử này có vai trò “hội nhập” (Tiếng Anh là “integrate”) các tín hiệungoại lai vào bộ khung của tế bào. Bình thường ở các tế bào bạch cầu chưa đượchoạt hoá thì các integrin tồn tại ở trạng thái có ái lực thấp. Khi các bạch cầu đanglăn trên bề mặt nội mô đồng thời các đại thực bào ở mô sau khi tiếp xúc với visinh vật thì tiết ra các yếu tố TNF và IL-1, các yếu tố này sẽ kích thích các tế bàonội mô sinh ra các cytokine khác có tên gọi là các chemokine (chữ chemokine đểchỉ các cytokine có hoạt tính hoá hướng động – chemoattractant cytokine). Cácchemokine bám vào bề mặt ở phía lòng mạch máu của các tế bào nội mô do đóchúng có nồng độ cao ở chỗ đang có các bạch cầu lăn tròn. Các chemokine này sẽkích thích làm cho các phân tử integrin trên bề mặt của bạch cầu tăng mạnh ái lựccủa chúng với các phối tử của chúng trên bề mặt nội mô. Đồng thời với việc kíchthích sinh ra các chemokine, TNF và IL-1 tác động lên các tế bào nội mô kíchthích chúng bộc lộ các phối tử của integrin. Sự gắn kết chặt chẽ của các phân tửintegrin với các phối tử của chúng giữ các tế bào lympho đang lăn tròn dừng lại.Bộ khung của tế bào bạch cầu tái sắp xếp lại làm cho hình dạng của tế bào uyểnchuyển hơn, tế bào dẹt lại và trải rộng ra trên bề mặt nội mô mạch máu. Ngoài ra,các chemokine còn kích thích các bạch cầu chuyển động, kết quả là các bạch cầubắt đầu “lách” qua thành mạch máu và di chuyển theo chiều gradient nồng độ củacác chemokine tới vị trí nhiễm trùng. Kết quả của quá trình lăn tròn của các bạchcầu trên bề mặt nội mô nhờ các phân tử selectin rồi bám chặt và nội mô nhờ cácphân tử integrin sau đó chuyển động dưới tác dụng của chemokine đã làm cho cácbạch cầu từ máu thoát mạch ra mô nơi đang bị nhiễm trùng chỉ trong vòng vàiphút sau khi nhiễm trùng bắt đầu. (Chúng ta cũng sẽ thấy trong chương 6 các tếbào lympho hoạt hoá di chuyển theo những cơ chế tương tự như vậy đến các mônhiễm trùng). Các biểu hiện thâm nhiễm bạch cầu tại chỗ nhiễm trùng cùng vớigiãn mạch cục bộ và tăng tính thấm thành mạch tạo ra hình ảnh của phản ứng viêmmà chúng ta thấy trên lâm sàng. Các dị tật di truyền gây thiếu hụt số lượng cácphân tử integrin và các ...

Tài liệu được xem nhiều: