Các yếu tố tác động đến ý định chuyển đổi số nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp dịch vụ logistics tại Việt Nam
Số trang: 18
Loại file: pdf
Dung lượng: 692.70 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài nghiên cứu nhằm khám phá những nhân tố tác động tới ý định chuyển đổi số nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp dịch vụ Logistics tại Việt Nam. Thông qua việc sử dụng mô hình PLS-SEM để đánh giá tương quan giữa các yếu tố được sử dụng trong mô hình.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các yếu tố tác động đến ý định chuyển đổi số nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp dịch vụ logistics tại Việt Nam PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3 CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý ĐỊNH CHUYỂN ĐỔI SỐ NHẰM THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI XANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DỊCH VỤ LOGISTICS TẠI VIỆT NAM Đoàn Duy Trường Lê Thị Thu Hà Nguyễn Thị Kim Dung Trường Đại học Thương Mại Email: doantruong16663@gmail.com Tóm tắt: Bài nghiên cứu nhằm khám phá những nhân tố tác động tới ý định chuyển đổisố nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp dịch vụ Logistics tại Việt Nam. Thôngqua việc sử dụng mô hình PLS-SEM để đánh giá tương quan giữa các yếu tố được sử dụngtrong mô hình. Kết quả thực nghiệm cho thấy, mức độ tác động của các biến lên ý định chuyểnđổi số theo thứ tự từ mạnh đến yếu là Hạ tầng số, Bước nhảy số, Môi trường kỹ thuật, Bối cảnhthị trường, Thể chế chính sách - pháp luật và ý định Chuyển đổi số cũng có tác động trực tiếplên Chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp dịch vụ Logistics tại Việt Nam. Nghiên cứu về yếutố tác động đến nghiên cứu ý định chuyển đổi số lượng doanh nghiệp logistics giúp xác địnhchiến lược kinh doanh và quản lý nguồn lực, đồng thời mở ra cơ hội thúc đẩy chuyển đổi xanhtrong ngành. Từ khóa: Doanh nghiệp dịch vụ Logistics, chuyển đổi kép, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa, chuyển đổi xanh là ưu tiên hàng đầu củangành logistics. Ở Việt Nam, nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi số trong logisticsnhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh là cần thiết. Chuyển đổi số giúp tối ưu hóa quy trình, giảm lãngphí, và giảm tác động tiêu cực đối với môi trường. Tuy nhiên, ngành logistics tại Việt Namđang đối mặt với thách thức về thiếu hiểu biết về công nghệ, trình độ học vấn thấp, và khó khăntrong việc đổi mới. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần nhận thức đúng về vai trò của chuyển đổisố và đối mặt với rào cản như thiếu kỹ năng số và nhân lực, thiếu nền tảng công nghệ thông tin. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2019), có khoảng gần 1,2 triệu xe tải được đăngký chính thức ở Việt Nam; trong đó, 68% có tổng trọng lượng xe nhỏ hơn 5 tấn, 11% từ 5 – 10tấn, 14% từ 10 – 20 tấn và 7% xe tải hạng nặng với tổng trọng lượng xe trên 20 tấn. Tỷ lệ xetải hạng nặng ở Việt Nam thấp nên phải sử dụng số lượng xe tải cao hơn để vận chuyển cùngmột lượng hàng hóa. Kết quả là tình trạng ùn tắc cao hơn, chi phí và lượng phát thải cao hơn. Với vận tải đường sắt, việc có quá nhiều chủng loại đầu máy gây khó khăn cho hoạt độngsửa chữa, thay thế phụ tùng. Do nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp nên chưa loại bỏ được số lượnglớn toa xe hàng cũ, lạc hậu trong khi vẫn thiếu nhiều toa xe cho hàng container. Đường sắt ViệtNam hiện nay có tốc độ bình quân 80 – 90 km/h, tốc độ khá chậm so với nhiều nước trên thếgiới. Với những hạn chế cả về kết cấu hạ tầng và phương tiện kể trên, vận tải đường sắt cũngxả một lượng lớn khí thải độc hại và tiếng ồn ra môi trường. Vẫn còn hiện tượng, rác và chất 112 PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3thải đường sắt xả trực tiếp xuống hai bên đường ray, gây ra các phản ứng phá hủy thiết bị đườngsắt, ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng dân cư. Theo công bố của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) về phát thải khí nhà kính lần thứ 4vào tháng 8/2020, lượng phát thải khí nhà kính của ngành vận tải biển (quốc tế, nội địa và đánhbắt cá) đã tăng gần 9,6% trong giai đoạn 2012 – 2018 (từ 977 triệu tấn lên 1.076 triệu tấn). Chỉtính riêng phát thải khí CO2 đã tăng từ 962 triệu tấn lên 1.056 triệu. Mặc dù vận tải hàng không là phương thức vận tải ít rủi ro nhất, khí thải từ máy bay làmô nhiễm khu vực nhạy cảm nhất của khí quyển. Theo Tổ chức Liên chính phủ về thay đổi khíhậu (IPCC), khói thải từ máy bay chiếm 3,5% nguyên nhân làm cho trái đất ấm dần lên. TheoCơ quan Môi trường châu Âu, các chuyến bay từ châu Âu tạo ra lượng khí thải lên tới 440.000tấn mỗi ngày. Tại Việt Nam, trung bình mỗi năm hoạt động vận tải phát thải khoảng 30 triệutấn CO2 thì trong đó vận tải hàng không chiếm 5% (Báo Tài nguyên Môi trường, 2019). Nghiên cứu về yếu tố tác động đến ý định chuyển đổi số của doanh nghiệp logistics tạiđây có thể giúp định rõ chiến lược kinh doanh và quản lý nguồn lực, đồng thời mở ra cơ hộithúc đẩy chuyển đổi xanh trong ngành. Kết quả của nghiên cứu có thể đóng góp cho cả cộngđồng logistics trong bối cảnh Việt Nam trở thành môi trường kinh doanh ngày càng quan trọngtrong hội nhập toàn cầu. Với mục tiêu đó, bài viết được cấu trúc thành các phần nội dung nhưsau: (1) Tính cấp thiết của đề tài; (2) Tổng quan cơ sở lý thuyết; (3) Kết quả và Thảo luận; (4)Kết luận và Khuyến nghị. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2.1. Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi số ở các doanh nghiệpdịch vụ logistics Nghiên cứu của Ha Le Viet và cộng sự (2023) tập trung vào yếu tố ảnh hưởng đến chuyểnđổi số trong doanh nghiệp logistics ở Việt Nam. Quản lý (35,5%), con người (24,7%), chi phí(20,5%), và dịch vụ hỗ trợ đào tạo (22,1%) được xác định là những yếu tố quan trọng nhất. Ràocản chính không phải là công nghệ mà là nhận thức của quản lý và chi phí thực hiện chuyển đổisố. Guanqiao Zhang và đồng nghiệp (2023) thực hiện nghiên cứu về chuyển đổi số trongdoanh nghiệp xây dựng Trung Quốc. Bảy yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến chuyển đổi số ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Các yếu tố tác động đến ý định chuyển đổi số nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp dịch vụ logistics tại Việt Nam PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3 CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN Ý ĐỊNH CHUYỂN ĐỔI SỐ NHẰM THÚC ĐẨY CHUYỂN ĐỔI XANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DỊCH VỤ LOGISTICS TẠI VIỆT NAM Đoàn Duy Trường Lê Thị Thu Hà Nguyễn Thị Kim Dung Trường Đại học Thương Mại Email: doantruong16663@gmail.com Tóm tắt: Bài nghiên cứu nhằm khám phá những nhân tố tác động tới ý định chuyển đổisố nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp dịch vụ Logistics tại Việt Nam. Thôngqua việc sử dụng mô hình PLS-SEM để đánh giá tương quan giữa các yếu tố được sử dụngtrong mô hình. Kết quả thực nghiệm cho thấy, mức độ tác động của các biến lên ý định chuyểnđổi số theo thứ tự từ mạnh đến yếu là Hạ tầng số, Bước nhảy số, Môi trường kỹ thuật, Bối cảnhthị trường, Thể chế chính sách - pháp luật và ý định Chuyển đổi số cũng có tác động trực tiếplên Chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp dịch vụ Logistics tại Việt Nam. Nghiên cứu về yếutố tác động đến nghiên cứu ý định chuyển đổi số lượng doanh nghiệp logistics giúp xác địnhchiến lược kinh doanh và quản lý nguồn lực, đồng thời mở ra cơ hội thúc đẩy chuyển đổi xanhtrong ngành. Từ khóa: Doanh nghiệp dịch vụ Logistics, chuyển đổi kép, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa, chuyển đổi xanh là ưu tiên hàng đầu củangành logistics. Ở Việt Nam, nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi số trong logisticsnhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh là cần thiết. Chuyển đổi số giúp tối ưu hóa quy trình, giảm lãngphí, và giảm tác động tiêu cực đối với môi trường. Tuy nhiên, ngành logistics tại Việt Namđang đối mặt với thách thức về thiếu hiểu biết về công nghệ, trình độ học vấn thấp, và khó khăntrong việc đổi mới. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần nhận thức đúng về vai trò của chuyển đổisố và đối mặt với rào cản như thiếu kỹ năng số và nhân lực, thiếu nền tảng công nghệ thông tin. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2019), có khoảng gần 1,2 triệu xe tải được đăngký chính thức ở Việt Nam; trong đó, 68% có tổng trọng lượng xe nhỏ hơn 5 tấn, 11% từ 5 – 10tấn, 14% từ 10 – 20 tấn và 7% xe tải hạng nặng với tổng trọng lượng xe trên 20 tấn. Tỷ lệ xetải hạng nặng ở Việt Nam thấp nên phải sử dụng số lượng xe tải cao hơn để vận chuyển cùngmột lượng hàng hóa. Kết quả là tình trạng ùn tắc cao hơn, chi phí và lượng phát thải cao hơn. Với vận tải đường sắt, việc có quá nhiều chủng loại đầu máy gây khó khăn cho hoạt độngsửa chữa, thay thế phụ tùng. Do nguồn vốn đầu tư còn hạn hẹp nên chưa loại bỏ được số lượnglớn toa xe hàng cũ, lạc hậu trong khi vẫn thiếu nhiều toa xe cho hàng container. Đường sắt ViệtNam hiện nay có tốc độ bình quân 80 – 90 km/h, tốc độ khá chậm so với nhiều nước trên thếgiới. Với những hạn chế cả về kết cấu hạ tầng và phương tiện kể trên, vận tải đường sắt cũngxả một lượng lớn khí thải độc hại và tiếng ồn ra môi trường. Vẫn còn hiện tượng, rác và chất 112 PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG MÔI TRƯỜNG SỐ LẦN THỨ 3thải đường sắt xả trực tiếp xuống hai bên đường ray, gây ra các phản ứng phá hủy thiết bị đườngsắt, ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng dân cư. Theo công bố của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) về phát thải khí nhà kính lần thứ 4vào tháng 8/2020, lượng phát thải khí nhà kính của ngành vận tải biển (quốc tế, nội địa và đánhbắt cá) đã tăng gần 9,6% trong giai đoạn 2012 – 2018 (từ 977 triệu tấn lên 1.076 triệu tấn). Chỉtính riêng phát thải khí CO2 đã tăng từ 962 triệu tấn lên 1.056 triệu. Mặc dù vận tải hàng không là phương thức vận tải ít rủi ro nhất, khí thải từ máy bay làmô nhiễm khu vực nhạy cảm nhất của khí quyển. Theo Tổ chức Liên chính phủ về thay đổi khíhậu (IPCC), khói thải từ máy bay chiếm 3,5% nguyên nhân làm cho trái đất ấm dần lên. TheoCơ quan Môi trường châu Âu, các chuyến bay từ châu Âu tạo ra lượng khí thải lên tới 440.000tấn mỗi ngày. Tại Việt Nam, trung bình mỗi năm hoạt động vận tải phát thải khoảng 30 triệutấn CO2 thì trong đó vận tải hàng không chiếm 5% (Báo Tài nguyên Môi trường, 2019). Nghiên cứu về yếu tố tác động đến ý định chuyển đổi số của doanh nghiệp logistics tạiđây có thể giúp định rõ chiến lược kinh doanh và quản lý nguồn lực, đồng thời mở ra cơ hộithúc đẩy chuyển đổi xanh trong ngành. Kết quả của nghiên cứu có thể đóng góp cho cả cộngđồng logistics trong bối cảnh Việt Nam trở thành môi trường kinh doanh ngày càng quan trọngtrong hội nhập toàn cầu. Với mục tiêu đó, bài viết được cấu trúc thành các phần nội dung nhưsau: (1) Tính cấp thiết của đề tài; (2) Tổng quan cơ sở lý thuyết; (3) Kết quả và Thảo luận; (4)Kết luận và Khuyến nghị. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2.1. Các nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển đổi số ở các doanh nghiệpdịch vụ logistics Nghiên cứu của Ha Le Viet và cộng sự (2023) tập trung vào yếu tố ảnh hưởng đến chuyểnđổi số trong doanh nghiệp logistics ở Việt Nam. Quản lý (35,5%), con người (24,7%), chi phí(20,5%), và dịch vụ hỗ trợ đào tạo (22,1%) được xác định là những yếu tố quan trọng nhất. Ràocản chính không phải là công nghệ mà là nhận thức của quản lý và chi phí thực hiện chuyển đổisố. Guanqiao Zhang và đồng nghiệp (2023) thực hiện nghiên cứu về chuyển đổi số trongdoanh nghiệp xây dựng Trung Quốc. Bảy yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến chuyển đổi số ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Chuyển đổi kép Chuyển đổi số Chuyển đổi xanh Mô hình PLS-SEMTài liệu liên quan:
-
11 trang 452 0 0
-
11 trang 444 0 0
-
Chuyển đổi số trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: Phần 2
471 trang 437 1 0 -
Báo cáo kế hoạch chuyển đổi số năm 2023 và dữ liệu số quốc gia
25 trang 331 1 0 -
Định hướng quản lý thuế trên nền tảng số
3 trang 321 0 0 -
6 trang 311 0 0
-
Đề xuất mô hình quản trị tuân thủ quy trình dựa trên nền tảng điện toán đám mây
8 trang 268 0 0 -
Một số vấn đề về chuyển đổi số và ứng dụng trong doanh nghiệp
11 trang 262 0 0 -
7 trang 239 0 0
-
11 trang 237 0 0