Danh mục

CẢM THỨC CÔ ĐƠN TRONG THƠ ĐỖ PHỦ VÀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU_2

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 137.83 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

2. Tâm sự cô đơn vô vọng kiểu Đỗ Phủ cũng xuất hiện nhiều trong sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du. Ngay từ thời trai trẻ
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CẢM THỨC CÔ ĐƠN TRONG THƠ ĐỖ PHỦ VÀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU_2 CẢM THỨC CÔ ĐƠN TRONG THƠ ĐỖ PHỦ VÀ THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU2. Tâm sự cô đơn vô vọng kiểu Đỗ Phủ cũng xuất hiện nhiều trong sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du. Ngay từ thời trai trẻ, thi nhân đã nhắc nhiều đến nỗi cô độc của bản thân mình. Đó là nỗi niềm tâm sự của một con người cô đơn, mệt mỏi u sầu, mất đi niềm tin vào cuộc sống. Sinh ra trong cảnh loạn ly, chứng kiến bao nhiêu bi hoan, tan hợp,Nguyễn Du chán ngán thế sự, âu lo về con đường tương lai, không biếtngỏ cùng ai những ước nguyện hùng tâm tráng chí. Một mình một bóng với bao cảnh thế sự thăng trầm, nhiễu nhương, đen bạc, với năm tàntháng tận, với tuổi già bóng xế, với mái tóc bạc trên đầu. Dễ thấy trong những vần thơ chữ Hán của ông hình ảnh một con người lặng im, vô ngôn, cô độc, tự vùi chôn tâm sự vào tận đáy lòng mình. Hiếm khiNguyễn Du tâm sự với một ai, chỉ thấy những tấc lòng cô đơn không dễ gì lí giải: Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ (Ta có tấc lòng không biết nóicùng ai) (My trung mạn hứng). Nhất sinh u tứ vị tằng khai (Suốt đời ôm mối u sầu chưa từng gỡ ra được) (Thu chí)Tâm sự của nguyễn Du không thoát được ra ngoài, không gửi vào được thiên nhiên, không hoà điệu được cùng gió trăng mây nước mà cơ hồđã thấm vào máu thịt của người. Thi nhân chỉ còn biết đối diện với bốn mùa: Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm (Mây khói bốn mùa một mìnhtrầm ngâm) (Thu dạ 2). Với bóng đêm: Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê(Suốt đêm bồi hồi, nghĩ ngợi miên man) (Ngẫu hứng I). Với bóng mình:Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ, (Bồi hồi trước bóng một mình yên lặng) (La Phù Giang thuỷ các độc toạ). Với ngọn đèn: Cô đăng tương đối đáo thiên minh (Ngọn đèn cô đơn đối diện với mình cho đến sáng) (Mạc phủ tức sự). với cây trúc trước sân: Vô ngôn độc đối đình tiền trúc(Riêng mình lẳng lặng trước cây trúc ngoài sân) (Ký hữu). Rồi gặm nhấm cô đơn và nghẹn ngào rơi lệ: Ky lữ đa niên đăng hạ lệ (Lâu năm làm khách xa nhà, lệ rơi dưới đèn) (Xuân dạ)Có gì đó tương đồng giữa con người cô đơn kia với ngọn cỏ bồng lìa gốc trước ngọn gió tây thổi mạnh, không biết xiêu giạt về đâu: Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp, Tất cánh phiêu linh hà xứ qui? (Tự thán I) (Một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây thổi gấp, Cuối cùng sẽ trôi giạt về đâu?) Tráng chí giang hồ bốn phương cuối cùng đành như ngọn cỏ bồngkhông gốc rễ, không có đích để dừng chân, không có bờ cập bến: Như ngọn gió bồng không rễ tha hồ chuyển dời (Hành cước vô căn nhiệmchuyển bồng - Mạn hứng II), đành cảm thương cho thân phận lẻ loi cô độc của mình nơi chân trời góc bể: Ở nơi chân trời thương mình như ngọn cỏ bồng lìa gốc mà rơi lệ (Nhất lệ thiên nhai sái đoạn bồng -(Ngẫu hứng II)... Điều này được Lê Thu Yến xác định: Đó là khung trờikhông có lối thoát cũng không có một viễn cảnh tươi sáng để theo đuổi trong tương lai. Con người cứ đi đi mãi và rồi sẽ mất hút trong chốn không gian vô hình [8,64].Thời gian đi sứ Trung Quốc, lòng Nguyễn Du thảnh thơi nhẹ nhõm hơnđôi chút. Thế nhưng nỗi cô đơn vẫn cứ bám riết lấy nhà thơ. Hành trình trên đất nước Trung Hoa cũng là hành trình của một trái tim cô đơnmang nỗi sầu lữ thứ. Trên đường đi, nhà thơ nhìn cảnh vật xứ người màlòng dấy lên nỗi cô đơn da diết. Đỉnh cao tâm trạng cô đơn của người đi xa trông về cố quốc có lẽ là khi nhà thơ đứng trước thành Tín Dươngnghe tiếng kèn mùa thu ảo não, u buồn mà cảm xúc trào dâng lai láng. Chừng như Nguyễn Du đã đồng vọng với Thôi Hiệu năm xưa khi đứng trên lầu Hoàng Hạc, bâng khuâng về một cánh hạc, hoài vọng cái đã qua, trở về với chính mình, cảm nhận sự cô đơn của gót chân lãng du mà man mác sầu nhớ quê hương: Vạn lí hương tâm hồi thủ xứ, Bạch vân nam hạ bất thăng đa. (Ngẫu hứng) (Ở nơi muôn dặm nhớ tới quê hương, ngoảnh đầu nhìn lại, Chỉ thấy mây trắng bay về nam không kể xiết) Bàng bạc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là một nỗi cô đơn, một mối uhoài. Hình ảnh con người tóc bạc lang thang trên con đường dưới bóng trăng tàn lạnh lẽo: Gió lạnh trên con đường xưa dồn cả vào mộtngười (Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân - Dạ hành) và cái bóng côđơn in trên cát lúc chiều tàn: Bóng người trên bãi cát phẳng lúc chiều tà (Bình sa nhân ảnh tại tà dương - Giang đầu tản bộ II) tiêu biểu cho nỗi lòng cô đơn của người lữ hành cô độc trong thơ chữ Hán NguyễnDu. Theo Nguyễn Thị Nương, đó là cái tôi cô đơn, bế tắc, tuyệt vọng củamột con người mang nhiều bi kịch cá nhân ở thời trai trẻ, đến cái tôi cô đơn của một vị quan không - thể - hòa - nhập với cuộc sống đầy rẫynhững thủ đoạn, thị phi, đoạt lợi tranh quyền trong chốn triều đình và một cái tôi cô đơn: Hiện lên dưới ngòi bút Nguyễn Du là người lữ khách mang nặng mối sầu tha hương song không nhuốm tủi hờn đau đớn như ở Thanh Hiên thi tập mà nghiêng về nỗi nhớ nhung da diết3. Tìm hiểu nỗi buồn cô đơn trong thơ Đỗ Phủ và thơ chữ Hán NguyễnDu, ta sẽ thấy có nhiều điểm tương đồng. Trong cảm thức vũ trụ mênhmang, cõi đời hư ảo, người đọc nhận ra nỗi lòng cô đơn ở những thiên tài độc bộ, độc hành trên hành trình tìm kiếm sự hòa giải nội tâm. Đường đi và đích đến mỗi người một khác nhưng cả hai đều trăn trở trong bể khổ nhân sinh, đều nhọc nhằn tìm kiếm và nhiều khi nhuốmmàu sắc bi hài với những trải nghiệm cá nhân trước vòng xoay tạo hóa. Đó là nỗi cô độc của những con người có tài, có tâm, có ý thức phản tỉnh, tự ngẫm, tự suy xét lại bản ngã cá nhân mình. Bên cạnh những điểm tương đồng ấy còn có thể tìm thấy những kiến giải khác nhau về cảm hứng cô đơn ở mỗi nhà thơ. Đỗ Phủ vốn là nhà Nho chính thống, được bồi đắp bởi ý chí nhập thế nên dẫu cho gặpcảnh thế sự thăng trầm, tầng lớp thống trị tha hóa nhưng lí tưởng Nhogia ở ông trước sau vẫn không tha ...

Tài liệu được xem nhiều: