Danh mục

Cao Huyết Áp và Stroke

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 106.44 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nguy cơ stroke tái diễn thấp hơn với statin : Atorvastatin sau khi bị stroke và cơn thiếu máu não thoảng qua. Trong một số nghiên cứu ngẫu nhiên dung statin để phòng ngừa tai biến động mạch vành, người ta thấy mức sinh stroke thấp. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào được thiết kế để xem statin có ngừa được stroke xảy ra lại ở những bệnh nhân đã bị stroke trước đó. Trong nghiên cứu này được tài trợ bởi viện bào chế, 4731 bệnh nhân (mới bị stroke hay cơn thiếu máu não thoáng qua),...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cao Huyết Áp và Stroke Cao Huyết Áp và Stroke Nguy cơ stroke tái diễn thấp hơn với statin : Atorvastatin sau khibị stroke và cơn thiếu máu não thoảng qua. Trong một số nghiên cứu ngẫu nhiên dung statin để phòng ngừa taibiến động mạch vành, người ta thấy mức sinh stroke thấp. Tuy nhiên, chưacó nghiên cứu nào được thiết kế để xem statin có ngừa được stroke xảy ra lạiở những bệnh nhân đã bị stroke trước đó. Trong nghiên cứu này được tài trợ bởi viện bào chế, 4731 bệnh nhân(mới bị stroke hay cơn thiếu máu não thoáng qua), mức LDL cholesterol100-190 mg/dl và không biết bệnh động mạch vành) mỗi ngày uống 80 mgatorvastatin 80 mg hay giả dược. Ở mức căn bản, mức LDL trung bình là 133 mg/dl. Bệnh nhân bị tànphế nặng do cơn stroke trước đó bị loại khỏi nghiên cứu. Trong thời gian theo dõi trung bình 4.9 năm, tỷ số sinh stroke chếtngười hay không thấp hơn ở nhóm dùng atorvastatin so với nhóm dùng giảdược (11.2% so với 13.1%). Phân tích chưa điều chỉnh và đã điều chỉnh vềgiảm nguy cơ trong 5 năm của atorvastatin liên quan đến giảm đáng kểstroke do thiếu máu cục bộ nhưng tăng đáng kể stroke do xuất huyết. Tuynhiên vì 85% stroke thuộc loại thiếu máu cục bộ, tác dụng lên loại strokenày bao trùm lên kết quả tổng quát. Nguy cơ phản ứng nghịch chính bệnhđộng mạch vành thấp hơn ở nhóm dùng atorvastatin so với giả dược (3.4%so v ới 5.1%), nhưng tử suất toàn bộ giống nhau (9.1% với atorvastatin và8.9% giả dược). Trong khi thử nghiệm, mức LDL giảm 45% ở nhóm dùngatorvastatin nhưng không thay đổi ở nhóm dùng giả dược. Điều thắc mắc ở nghiên cứu này là bệnh nhân có cần phải dùng liều80 mg mỗi ngày không hay chỉ 10-20 mg nếu mức LDL dưới 100 mg/dl. Theo The Stroke Prevention by Aggressive Reduction in CholesterolLevels (SPARCL) Investigators. High-dose atorvastatin after stroke ortransient ischemic attack. N Engl J Med 2006 Aug 10; 355:549 -59. CCB có thể phòng ngừa stroke do giảm đáng kể bề dày nội mạcgiữa động mạch: CCB= Calcium channel blocker= thuốc chẹn kênh calcium ACE inh= angiotensin converting enzyme inhibitor= thuốc chống menchuyển ARB = Angiotensinogen 2 Receptor Antagonist = thuốc đối kháng thụthể angiotensinogen Theo kết quả phân tích meta mới, CCB làm chậm lại diễn tiến làm dàylớp nội mạc giữa động mạch nhiều hơn thuốc lợi tiểu, beta-blocker haythuốc chống men chuyển. Theo một báo cáo trong báo Stroke số tháng 7,một số nhà nghiên cứu ở Thượng-hải, Bỉ, Pháp và Hoa-kỳ ghi nhận caohuyết áp là yếu tố nguy hiểm chính sinh dày lớp nội mạc giữa động mạch. Trong bảng phân tích, các nhà nghiên cứu tìm được 22 nghiên cứungẫu nhiên có kiểm chứng để đánh giá tác dụng của thuốc hạ huyết áp so vớigiả dược lên bề dày lớp nội mạc giữa động mạch. Tất cả nghiên cứu trongphân tích được công bố ở Anh trước 2005. 8 nghiên cứu so sánh thuốc hạ huyết áp với giả d ược hay không điềutrị, 9 nghiên cứu so thuốc cũ với thuốc mới, và 5 nghiên cứu so thuốc chốngmen chuyển với CCB. Những nghiên cứu gồm 9138 người tham dự, trong số đó 8449 ngườiđược phân phối ngẫu nhiên trong 17 nghiên cứu mù đôi và 689 người trong5 nghiên cứu mở. Nói chung, tính chất chính của các bệnh nhân đều t ươngtự. Tuổi trung bình từ 49 đến 68, và mức huyết áp tâm thu trung bình là 129đến 175 mm Hg và huyết áp tâm trương 76 đến 104 mm Hg. Thời gian theodõi trung bình từ 0.5 đến 4.7 năm. Bề dày lớp nội mạc giữa đo ở mức khởi đầu và đó trong khi theo dõi,1 lần ở 5 thử nghiệm, 2 lần ở 8 thử nghiệm và ≥ 3 lần trong 9 thử nghiệm.Hầu hết (16) thử nghiệm đo bề dầy lớp nội mạc giữa cả 2 bên. Trong 8 nghiên cứu so sánh thuốc trị cao huyết áp với giả dược haykhông điều trị (gồm 3329 bệnh nhân có thêm bệnh tiểu đường và bệnh độngmạch vành. Điều trị cao huyết áp khởi đầu bằng thuốc chống men chuyển,thuốc beta-blocker hay CCB giảm bề dày màng nội mô giữa 8 mcm so vớigiả dược hay không điều trị. Trong 9 nghiên cứu so sánh thuốc cũ với thuốc mới (4564 người caohuyết áp), thuốc mới (CCB, thuốc chống men chuyển, ARB hay đối khángalpha) giảm bề dày lớp nội mô giữa động mạch 3 mcm hơn nhóm thuốc cũ(thuốc lợi tiểu và beta-blocker) (P=0.03). Lợi ích tổng quát của thuốc mới phần lớn do tác dụng trong 4 nghiêncứu CCB ( giảm 5 mcm mỗi năm (P=007). Kết quả toàn diện của thuốcchống men chuyển không khác với thuốc cũ. Trong 5 nghiên cứu (287 bệnh nhân cao huyết áp hay tiểu đường),CCB giảm đáng kể bề dày của lớp nội mạc giữa mỗi năm 23 mcm so vớithuốc chống men chuyển (P=0.02). Tác dụng lên huyết áp không khác nhau giữa 2 nhóm thuốc này. Thay đổi bề dày lớp nội mạc giữa do điều trị tương quan yếu vànghịch với đường kính ruột động mạch (P=0.02 sau khi điều chỉnh mứchuyết áp tâm thu và tâm trương ở mức căn bản), nhưng không tương quanvới sai biệt do điều trị huyết áp tâm thu (P=0 ...

Tài liệu được xem nhiều: