Danh mục

Cấu trúc tiết vị T

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 140.87 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Tham khảo tài liệu cấu trúc tiết vị t, khoa học xã hội, ngôn ngữ học phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cấu trúc tiết vị T Cấu trúc tiết vịTheo lí thuyết về cấu trúc tôn ti của một hệ thống ngôn ngữ, âm vị là cơ sở của cấpđộ âm vị học – cấp độ thấp nhất của hệ thống. Người ta không thể lấy âm tiết làmđơn vị xuất phát cho phân tích âm vị, bởi vì âm là đơn vị của lời nói, đơn vị ngữâm học, còn âm vị lại là đơn vị của hệ thống ngôn ngữ, đơn vị của âm vị học.Không thể lấy một đơn vị của lời nói để phân tích ra một đơn vị của ngôn ngữ (x.Phân biệt ngữ âm học và âm vị học). Chính vì điều này mà Cao Xuân Hạo đã cómột phản ứng rất cực đoan trong cuốn Âm vị học và tuyến tính. Ông cho rằng,không thể phân tích ra được âm vị tiếng Việt vì trong âm tiết, các âm vị đã hoà lẫnvào nhau mà không có tính chất chiết đoạn. Đây là một quan niệm học thuật rấtđộc đáo và có nhiều khả năng là đúng. Tuy nhiên, chúng ta không theo quan niệmnày bởi vì trong cấu trúc hệ thống của chúng ta, tương ứng như tình hình các ngônngữ Ấn-Âu, trên cấp độ âm vị học là cấp độ từ pháp học với đơn vị cơ sở là cáchình vị. Âm vị tổ hợp nên các hình vị và vì vậy, hình vị sẽ được tách ra thành cácâm vị.Trong tiếng Việt, hình vị là các tiết vị (syllabemes). Do đặc điểm đơn lập mà cácyếu tố hình thái học của tiếng Việt (yếu tố cấu tạo từ, hình vị, các đơn vị cơ sở củatừ pháp học…) nằm gọn trong một vỏ âm tiết. Nghĩa là ranh giới của âm tiết tựnhiên trong lời nói bình thường trùng làm một với ranh giới các đơn vị hình tháihọc (để cấu trúc từ). Chính vì đặc điểm thứ hai này mà tiếng Việt, ngoài thuộc tínhđơn lập về mặt loại hình còn có đặc điểm là ngôn ngữ phân tích tính (các âm tiếtđược phát âm rời ra khỏi nhau, không có âm tiết nào chồng lên âm tiết nào).Bằng chứng để khẳng định rằng các tiết vị là đơn vị ngôn ngữ nằm ở chỗ: Nếu theocấu trúc âm tiết do Đoàn Thiện Thuật và Cao Xuân Hạo đưa ra thì chúng ta có thểtính ra số lượng các âm tiết của tiếng Việt là: C1 w V C1 T 23 x 2 x 16 x 8 x 6 = 35328 (âm tiết khả năng)Tuy nhiên, trong thực tế, theo luận án của Trần Thị Minh Phương (1991) Dùngthuyết Tâm và Biên cho khảo sát âm vị học tiếng Việt hiện đại thì tiếng Việt có6142 âm tiết hành chức – các âm tiết thực. Đó chính là bằng chứng nói lên rằng cơchế tiếng Việt đã tác động vào tài nguyên ngữ âm của người Việt để khai thác lấy20% khả năng cho việc cấu tạo từ và sử dụng một cách có chức năng các vật liệuâm thanh tiếng Việt. Việc dùng hay không dùng một âm tiết đuợc cấu tạo nên vềmặt lí thuyết, trong hình ảnh khái quát nhất chính là biểu hiện của cơ chế âm vị họccủa tiếng Việt, hay là cơ chế Hình-âm vị học tiếng Việt.Tóm lại, sở dĩ các âm tiết thực là các hình vị bởi vì:a. Ranh giới của nó trùng với ranh giới ngữ nghĩab. Có số lượng hữu hạn và đếm đượcc. Có khả năng lặp lại ở trong nhiều cấu trúc lớn hơn so với hình vị (từ, ngữ).Lí do này cho phép chúng ta coi tiết vị là đơn vị xuất phát ngang với hình vị đểphân tách ra được các âm vị, đơn vị nhỏ nhất của hệ thống ngôn ngữ của ngườiViệt.Về mặt cấu trúc, một tiết vị tiếng Việt là một sự tổng hoà của hai loại nét khu biệtkhác nhau trong hệ thống âm vị học tiếng Việt. Đó là hệ thống nét cố hữu (inhericfeatures) và hệ thống nét điệu tính (prosodic features)(Đọc thêm Hoàng Cao Cương. Suy nghĩ thêm về hệ thống thanh điệu tiếng Việt.Ngôn ngữ, 1986).Các đặc điểm cố hữu là các đặc điểm nòng cốt tạo nên các đơn vị chiết đoạn. Còncác đặc điểm điệu tính thì phụ vào để tạo nên các điệu vị của tiếng Việt hay còngọi là các đơn vị siêu đoạn tiếng Việt (R. Jakobson (1952); J. Goldsmith (1978)...).Khác với các hệ thống âm vị học khác, hệ thống âm vị tiếng Việt đựoc đặt điềukiện bởi sự đan cài xoắn vào nhau đến nỗi không thể tách rời. Âm vị học tiếng Việtmở rộng cho rằng, sự phân bố của các nét cố hữu và nét điệu tính là có tính quyluật trong một tiết vị của tiếng Việt. Chúng là một hàm theo thời gian được thểhiện theo sơ đồ sau:Phân tích:1. Hai đường cố hữu và điệu tính phân bố dọc theo một khuôn cấu trúc mà chúngta kí hiệu là C1-V-C2, trong đó:C1: thành phần đầu của âm tiết;C2: phần cuối của âm tiết;V: phần đỉnh của âm tiếtHai đường này phân bố ngược nhau theo thời gian: Các đặc điể m cố hữu càng vềcuối âm tiết càng nghèo nàn và đơn điệu trong khi các đặc điểm điệu tính càngphong phú. Chứng cứ là:- Các chiết đoạn có số lượng càng về sau càng giảm: (23C1 → 8C1), nội dung âmvị học các chiết đoạn càng về cuối càng đơn giản: ở C2 không tồn tại các nét[+xát], hoặc [+hữu thanh].- Trong khi đó, càng về cuối âm tiết thì cấu trúc càng chặt chẽ hơn, đến mức bùngnổ ra sự đối lập của thanh điệu: các thanh điệu chỉ phân biệt nhau ở phần cuối cấutrúc của chúng mà thôi. Còn ở phần đầu, đường nét và sự phân bố âm vực khôngcó giá trị khu biệt.2. Quan sát đường biểu diễn trên sơ đồ sẽ thấy hai đường (điệu tính và cố hữu) đógiao nhau ở phần đỉnh âm tiết (V). Nói cách khác, một ...

Tài liệu được xem nhiều: