Thông tin tài liệu:
Nếu ... chẳng may tìm được thì kết quả đáng tin cậy đến mức nào, sử dụng nó như thế nào? v.v... Ta đang bàn về “cấu trúc vốn”. Vậy trước hết cần một điểm xuất phát. Theo như các bài viết thì ta sẽ lấy tỷ lệ D/E gọi là cấu trúc vốn của DN, trong đó D là các khoản vay có kỳ hạn và E là vốn chủ sở hữu. Ta cũng giả thiết là V = E + D. Có thể có những biến điệu của định nghĩa “cấu trúc vốn tối...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cấu trúc vốn làm tối tiểu WACC
Cấu trúc vốn làm tối tiểu WACC
I. Đặt vấn đề
Trên SAGA đã có nhiều bài khá sâu về vấn đề cấu trúc vốn. Tôi có cảm giác đó là
diễn đàn của những Guru, và vì vậy người học và cả những người muốn vận dụng
khái niệm này sẽ có thể hơi bị rối, khó mà hiểu được vậy thì có thật cái cấu trúc
vốn tối ưu theo một nghĩa nào đó không? Làm sao tìm ra nó? Nếu ... chẳng may
tìm được thì kết quả đáng tin cậy đến mức nào, sử dụng nó như thế nào? v.v...
Ta đang bàn về “cấu trúc vốn”. Vậy trước hết
cần một điểm xuất phát. Theo như các bài
viết thì ta sẽ lấy tỷ lệ D/E gọi là cấu trúc vốn
của DN, trong đó D là các khoản vay có kỳ
hạn và E là vốn chủ sở hữu. Ta cũng giả thiết
là V = E + D.
Có thể có những biến điệu của định nghĩa “cấu trúc vốn tối ưu - CTVTU”. Mỗi
biến điệu sẽ làm xuất hiện một đối tượng mới, mô hình toán mới. Chúng ta biết là
có khi mô hình toán chỉ đổi chút xíu có thể dẫn đến một bài toán là giải được còn
bài kia là không giải được.
Qua các bài viết và qua nghiên cứu các tư liệu, ta có thể tạm đưa ra 3 khái niệm
CTVTU tương đối dễ hình dung:
1. Một là tỷ lệ D/E làm cho WACC đạt Min. Ta gọi đó là CTVTU dạng 1.
2. Hai là tỷ lệ D/E làm cho giá trị DN đạt Max. Ta gọi đó là CTVTU dạng 2.
3. Ba là tỷ lệ D/E làm cho giá trị cổ phần đạt Max. Ta gọi đó là CTVTU dạng 3.
Có bạn còn nêu trong bài viết của mình về một CTVTU dạng (1 and 2), tức tỷ lệ
D/E làm WACC đạt Min và giá trị DN đạt Max! Tôi nghi ngờ (nhưng không phủ
định vì chưa có thời gian xem xét kỹ) việc bài toán này có lời giải (?).
Về CTVTU dạng 2 và 3, tôi xin trích lời bàn của Dr. Vuong gắn với bài của
TranTriDung (Tóm lược một số lý thuyết về cấu trúc vốn): “Nếu bạn đã đọc định
lý Modigliani-Miller I (M&M), thì kết cục của nó chỉ đơn giản là cấu trúc vốn
không thể quyết định giá trị của doanh nghiệp. Tôi không phải là fan của
Modigliani, nhưng rõ ràng điều này đã được chứng minh và công nhận từ rất lâu
trong thế giới tài chính”. Như vậy ta tạm xếp CTVTT dạng 2 và 3 sang một bên.
Nghĩa là ta chỉ bàn về CTVTU dạng 1, tức một tỷ lệ D/E làm cho WACC đạt Min.
Có hay không trong thực tế một tỷ lệ D/E làm Min WACC?
Có! Và ta sẽ thử ước tính nó ...
Trước khi đi vào câu chuyện chính, tôi muốn chia sẻ vài suy nghĩ với các bạn trẻ.
Tôi nhắc lại 2 câu chuyện thật.
Chuyện thứ nhất: ngày xửa ngày xưa,
khi tôi còn là sinh viên (ngành toán),
có lần tôi nói với một bậc đàn anh,
một TS. vật lý đại ý rằng: “Em không
thể chịu được cách mà các nhà vật lý
sử dụng toán học để nghiên cứu vật lý.
Họ đưa ra một mô hình toán (thường
là các phương trình đạo hàm riêng) mô tả một hiện tượng vật lý, rồi họ giải
phương trình này. Khi giải thì họ thường gặp những bài toán (thuần túy toán vì lúc
này đã thoát ly ý nghĩa vật lý ban đầu sau khi kiến tạo mô hình toán) rất khó mà
toán học có khi còn bất lực. Thế là họ quăng bớt các đại lượng này, đại lượng nọ
để bài toán có dạng đơn giản, kết quả là họ giải được. Họ bảo rằng đó chính là
hiện tượng vật lý mà họ đang truy tìm! Quăng đi lung tung từ mô hình gốc rồi lại
bảo: “Đích thị hắn đấy” thì sao mà nghe được?”. Ông anh vật lý nói với tôi rằng:
“mày thật là ... ngu! Không quăng bớt đi mà cố tình giải cho được cái phương
trình vô cùng phức tạp đó thì cái thu được không còn là hiện tượng vật lý mà bọn
anh truy lùng nữa mà là cái quái quỷ gì đó của dân toánn chúng mày thôi!”.
Chuyện mới đây: cách đây ít lâu, ngồi ở quán ăn với Dr. Vuong, tình cờ nhắc lại
hội thảo về Định Giá Thương Hiệu mà SAGA tham gia tổ chức vào giữa năm
2007. Dr. Vương nói với tôi một ý đại thể là: tại hội thảo, nhiều DN hỏi rằng vậy
chúng tôi muốn có công thức tính ra giá trị Thương Hiệu của DN thì công thức đó
có không? Dr. Vuong trả lời rằng không thể định giá Thương Hiệu bằng tính toán
theo công thức. Tôi là người đã có nghiên cứu và giảng dạy về những công thức
lọai này nên hiệu chỉnh lại một chút rằng: Theo tôi, chính xác hơn có lẽ nên nói
rằng có những công thức, có những giải thuật (nhiều và hay nữa là khác) để tính
giá trị Thương Hiệu trên cơ sở một số số liệu đầu vào về thị trường. Nghĩa là
muốn xác định giá trị Thương Hiệu thì con đường rất tốt là dùng các công thức
tính toán. Tuy nhiên không ai xem những kết quả tính toán đó là giá trị cứng của
Thương Hiệu. Không tính giá trị Thương Hiệu theo công thức thì là dở nhưng
xem đó là giá trị cứng nhắc một cách vô điều kiện thì còn dở hơn. Tới đây, tôi lại
trích thêm một đọan lời bàn của Dr. Vương khi bàn với kphong trong bài của
TranTriDung “Tóm lược một số lý thuyết về cấu trúc vốn”: “Trong giá trị có chứa
cảm xúc, và cảm xúc là thứ khó đo, thường xuyên biến động. Đây là sự thật rõ
ràng. Giá trị doanh nghiệp (tôi đổi thành Thương Hiệu – Nguyễn Trọng) này còn
dựa cả vào xu hướng, sở thích, mốt và nỗi
niềm hào hứng của thị trường”.
Từ 2 câu chuyện này, tôi muốn chia sẻ với
các bạn rằng: Để ứng dụng (chứ không phải
làm luận án tiến sỹ!) thì đừng làm quá phức tạp cái mô hình toán mô tả hiện tượng
kinh tế (làm luận án tiến sỹ thì thả sức với những mô hình phức tạp!). Không có
mô hình nào thay thể được trực giác của chuyên gia, của nhà quản trị. Những kết
quả tính bằng mô hình sẽ là và chỉ là điểm tựa tốt để chuyên gia suy nghĩ và quyết
định. Ngay cả chính các đại lượng tham gia trong mô hình tính toán cũng không là
cứng nhắc. Tiện đây, tôi muốn nói vài lời về đại lượng Re trong công thức tính
WACC mà tôi đã nói trong một bài trước. Nói chung đó là chi phí vốn chủ sở hữu.
Ta lấy lãi cổ tức trung bình một số năm làm Re, hay chỉ của một năm gần nhất,
hay cộng (thậm chí trừ!) một lượng “rủi ro” (phản ánh thực tế nào đó theo suy
nghĩ và đề xuất của chuyên gia ...