Danh mục

Cây chè ở Trung Du và miền núi nước ta

Số trang: 8      Loại file: pdf      Dung lượng: 153.52 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (8 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Cây chè đã gắn bó và phát triển nhiều năm bởi đặc tính sinh học cũng như cuộc sống của người dân vùng trung du miền núi. Để sản xuất chè phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có, người trồng chè và cây chè cần được đầu tư hơn nữa về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Cây chè (Thea sinensis L.) là một trong số ít những cây công nghiệp của vùng trung du miền núi (TDMN), ngay từ đầu thế kỷ 20 đã được chú ý nghiên cứu đưa vào khai thác sử dụng trên...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cây chè ở Trung Du và miền núi nước taCây chè ở Trung Du và miền núi nước taCây chè đã gắn bó và phát triển nhiều năm bởi đặc tính sinh học cũng nhưcuộc sống của người dân vùng trung du miền núi. Để sản xuất chè phát triểntương xứng với tiềm năng vốn có, người trồng chè và cây chè cần được đầu tưhơn nữa về kinh tế và khoa học kỹ thuật. Cây chè (Thea sinensis L.) là mộttrong số ít những cây công nghiệp của vùng trung du miền núi (TDMN), ngaytừ đầu thế kỷ 20 đã được chú ý nghiên cứu đưa vào khai thác sử dụng trên quimô công nghiệp. Năm 1939, diện tích chè đã có 17.400 ha, sản lượng 10.900tấn, xếp thứ 6 trên thế giới sau Ấn Độ, Srilanka, Trung Quốc, Nhật Bản vàIndonexia. Thời đó, người Pháp đã đưa mặt hàng chè của ta tiêu thụ ở một sốnơi trên thị trường thế giới, với các tên gọi khác nhau. Sau hòa bình lập lại(1954) thời Hoàng kim của cây chè là vào những năm của các thập kỷ 60,70, và 80. Được Nhà nước khuyến khích, đầu tư hàng vạn lao động gồm bộ độigiải ngũ, thanh niên xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới... lập nên cáccông trường, lâm trường và nông trường (chủ yếu trồng chè). Đến nay diệntích chè cả nước vào khoảng 70 ngàn hecta, trên địa bàn 21 tỉnh, tập trung ởTDMN phía Bắc, khu 4 cũ và Tây Nguyên. Hàng chục cơ sở chế biến với quimô đủ loại: lớn (55T/ngày), vừa (9-13T/ngày) và nhỏ, cùng đội ngũ cán bộ,công nhân lành nghề (ở cả 2 khâu trồng trọt và chế biến). Hàng năm sản xuấtgần 40 ngàn tấn sản phẩm, xuất khẩu 50-55% chủ yếu là chè đen (70-80%),còn lại là chè xanh, chè hương. Giá chè của ta trên thị trường còn thấp (1,0-1,4 đôla/kg) trong khi đó giá chè cùng loại của nước khác gấp trên 2 lần (2,4-3,5 đôla/kg). Năng suất bình quân còn thấp, mới đạt 3,5-3,8 tấn búp/ha. Theotài liệu của Ấn Độ đã tổng kết: Người làm chè muốn có lợi nhuận, năng suấttối thiểu phải đạt 5 T/ha. TDMN nước ta có diện tích tự nhiên 23,9 triệu hectabằng 72,4% diện tích toàn quốc (không kể hải đảo), dân số 19 triệu với 7,7triệu lao động sinh sống chính bằng nông nghiệp (chiếm 26,6% lao động cảnước) (số liệu 1989). Đất đai nhìn chung thuộc loại tốt, hơn 40 loại cây trồngvà hơn 10 loài vật nuôi chính có ở TDMN, trong đó một số thuộc loại quýhiếm, đặc sản. Do đặc điểm phức tạp về địa hình, muốn khai thác có hiệu quảmang tính ổn định và bền vững, chúng ta phải tuân thủ nghiêm ngặt hệ thốngcanh tác thích hợp với môi trường sinh thái vùng đồi núi. Trong hoạt độngkinh tế phải bảo vệ tốt rừng đầu nguồn phòng chống bão lũ, hạn chế tối đa sựbào mòn rửa trôi bằng các vành đai cây trồng, ruộng bậc thang đồng mức, kếthợp với đắp đập xây hồ, làm đường giao thông, giữ nước chăn nuôi thả cá...nâng dần độ che phủ mặt đất tiến tới xóa bỏ đất trống đồi núi trọc. Ápdụng phương thức luân canh, trồng xen, gối vụ hợp lý của nhiều loại cây,nhiều tầng giữa những cây hàng năm, hàng vụ với những cây lâu năm... Nhìnlại vài thập kỷ qua, nhất là khi có công cuộc đổi mới, chúng ta đã đề cập nhiềuđến các vấn đề như nông - lâm kết hợp, sản xuất kinh doanh tổng hợp, phảiđa dạng hóa ngành nghề và sản phẩm v.v... nhưng trên thực tế chưa làm đượcbao nhiêu, chủ yếu vẫn là khai thác, nên không bảo vệ được các nguồn lợi tựnhiên vốn có, dẫn đến hủy hoại môi trường sống, kinh tế không phát triểnđược. Tiếp đến vấn đề đảm bảo an toàn lương thực cho TDMN trong một thờigian nhất định có tính quyết định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của cảvùng. Ngoài những chính sách, chế độ ưu tiên, ưu đãi cần mở rộng quĩ tíndụng cho người nghèo, đưa chương trình khuyến nông đến đến với mọi ngườidân nơi xa xôi hẻo lánh... Mặt khác, phải đẩy mạnh sản xuất lương thực, thựcphẩm, đưa những giống cây thích hợp, có khả năng chịu hạn, giúp cho nôngnghiệp, nông thôn TDMN sớm đi vào ổn định và phát triển về sau. Về cây chè,có thể khẳng định trên địa bàn TDMN là cây trồng đặc thù về nhiều phươngdiện. Không chỉ về mặt kinh tế làm giàu cho đất nước như các nước quanh tađã và đang làm. Một cây trồng chưa bao giờ xảy ra hiện tượng mất trắng vìthiên tai như các cây trồng khác. Về mặt môi trường có thể xếp vào loại câyphủ xanh đất trống đồi trọc tốt nhất, vì khả năng thích nghi ở vùng đồi núi.Tuy nhiên, để sản xuất chè phát triển, tăng thu nhập cho người trồng, chúngchúng tôi xin nêu hai vấn đề cần giải quyết như sau: Chất lượng sản phẩm vàthị trường tiêu thụ. + Chất lượng chè là do nguyên liệu quyết định, nguyênliệu tốt hay xấu ảnh hưởng lớn bởi điều kiện tự nhiên, chẳng hạn cũng giốngchè trung du trồng ở Bắc Thái được nhiều người ưa chuộng hơn. Theo tài liệuphân vùng qui hoạch trên địa bàn TDMN nước ta có tới 13 tiểu vùng sinh tháikhí hậu nhiệt đới ẩm khác nhau dẫn đến chất lượng nguyên liệu sẽ khác nhau.Nước ta có nhiều vùng chè tuyết, chè Shan ở vùng núi cao của các tỉnh YênBái, Hà Giang, Cao Bằng, Mộc Châu... Những vùng chè này tuy chưa đượctập trung, nhưng có giá trị cao về phẩm chất. Trong những năm tới cần thiếtcó kế hoạch đầu t ...

Tài liệu được xem nhiều: