Danh mục

Chầy và Cối

Số trang: 15      Loại file: pdf      Dung lượng: 379.30 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (15 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hôm trước, tôi đã chia sẻ quan điểm cá nhân của mình về văn hóa. Hôm nay, xin gửi đến các bạn một số thông tin về những vật dụng mà tôi đã nêu trên, dưới quan điểm của một số học giả, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, để cùng hiểu rõ hơn về những đồ vật quen thuộc trong đời sống chúng ta. Trước hết, là những tư liệu về Chày và Cối.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chầy và CốiChầy và CốiHôm trước, tôi đã chia sẻ quan điểm cá nhân của mình vềvăn hóa. Hôm nay, xin gửi đến các bạn một số thông tin vềnhững vật dụng mà tôi đã nêu trên, dưới quan điểm củamột số học giả, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, để cùnghiểu rõ hơn về những đồ vật quen thuộc trong đời sốngchúng ta. Trước hết, là những tư liệu về Chày và Cối.Trong cuốn Văn minh vật chất của người Việt của tác giảPhan Cẩm Thượng, ông dành hẳn một mục (mục 7) trongchương 2 (từ trang 153 đến 156) để nói về Chầy và cối. Khiđọc chương này của bác Thượng, tôi thấy ông không gọibằng “Chày” mà gọi bằng “Chầy”. Suy nghĩ về độ chính xáccủa 2 từ này, tôi đã tra cứu từ điển tiếng Việt và thấy họ địnhnghĩa như sau:- Chày (danh từ): Dụng cụ dùng để giã, thường làm bằngmột đoạn gỗ hoặc một thỏi chất rắn và nặng- Chầy (tính từ): Muộn, chậm: không chóng thì chầy - Saosao chẳng kíp thì chầy/Cha nguyền trả đặng ơn này thì thôi(Nguyễn Đình Chiểu)Nếu theo đúng định nghĩa, có thể nói từ “Chày” đúng hơn,nhưng khi suy nghĩ về cách gọi “Chầy” của bác Thượng, tôinghĩ – đó mới lại là một khái niệm “chuẩn” về mặt văn hóa.Vì nguyên gốc của nó là “Chày”, nhưng theo thời gian, quanhiều thế hệ, đặc biệt là ở vùng nông thôn, đến giờ tôi vẫnthấy người ta nói từ “Chầy” nhiều hơn. Không rõ lý do dẫnđến việc khác biệt này nằm ở đâu, ở cái phát âm khó hơn củatừ “Chày” so với “Chầy” hay vì lý do nào khác? Nhưng tôithấy, trong toàn bộ cuốn Văn minh vật chất của người Việt,bác Thượng rất triệt để trong cách dùng từ theo lối nói “dângian”, không chỉ riêng với “Chầy” mà nhiều vật dụng kháccũng được bác gọi với cách gọi phổ biến nhất – chứ khôngphải cách gọi chính xác theo định nghĩa hàn lâm. Do vậy, xinmạn phép gọi đúng theo danh từ mà bác Thượng dùng để nóitiếp về Chầy và CốiTrong mục 7 cuốn Văn minh vật chất, bác Thượng có đoạnviết thế này: “ Nếu như với hai loại cối quay trên đều có hainửa trên và dưới, nửa động nửa tĩnh, thì các loại cối có chầylà biểu hiện cụ thể hơn của cái triết lý sinh tồn. Cối là cái,chầy là đực, chầy đâm vào cối là biểu thị của hành vi giaohợp giữa hai giống mà sinh tồn. Cái này được hình tượnghóa trong vật thờ Nõn Nường, hoặc Nõ Nường bằng gỗ…”Đọc đoạn này, chắc hẳn nhiều người tủm tỉm cười vì nhữnghình dung, tưởng tượng mà ai cũng biết nhưng mấy ngườinói ra về chầy và cối. Bác Thượng thì nói đúng với cảmnhận, với hiểu biết của mình, không né tránh, ngại ngần. Bảnthân tôi khi đọc đến đây cũng có cảm giác gì đó hơi “gaigai”, nhưng suy nghĩ lại mới thấy sao mà văn hóa Việt mìnhnó thâm thúy, mà cũng gần gũi đến thế. Mọi đồ vật đượcsáng tạo ra không chỉ để phục vụ cho lao động, sinh hoạt, màcòn chứa đựng những hình tượng vô cùng quen thuộc và rấtđỗi tự nhiên.Bác Thượng cũng đưa ra nhiều mẫu Chầy Cối đặc trưng củamột số vùng miền, một số hình ảnh bác chụp từ các bảo tàng,một số khác bác vẽ minh họa bằng tay (dân Mỹ thuật cókhác, sẵn công cụ để phục vụ cho bài viết quá). Những hìnhảnh bác Thượng minh hoạt tôi tìm trên mạng không có,nhưng nhờ gợi ý của bác, tôi cũng xin tổng hợp lại đây mộtsố hình ảnh có trên Google để mọi người cùng so sánh sựgiống và khác nhau của Chầy cối ở mỗi vùng miền:Chày cối phổ biến ở miền Bắc Việt NamChày cối của người Khơme, Nam BộCối bằng gỗ của người Ê đêCối giã gạo của người ChămCối giã gạo miền NamCối chày giã gạo (không rõ nguồn gốc xuất xứ, địa phươngsử dụng)Cối giã gạo (không rõ xuất xứ)Đôi khi cối và chầy được làm một cách đơn giản như thế nàyChày và cối nhỏ thời hiện tạiNhững hình ảnh trên đây cho thấy chầy cối ở mỗi vùng miềnlại có những nét khác nhau. Điểm khác biệt đầu tiên là vềhình dạng. Đa phần thân cối có hình tròn, miệng tròn, một sốnơi miệng có hình vuông. Cá biệt, một số vùng miền đơngiản hóa chiếc cối đúng như hình dạng ban đầu của chất liệutạo ra nó, chỉ khoét phần lòng cối võng sâu để đựng đồ cầngiã.Điểm khác biệt thứ hai là về chất liệu làm cối. Vì đảm nhiệmcông việc “chứa đựng” khá nặng nề, đa phần cối đều đượclàm từ những vật liệu chắc chắn như kim loại, đá, gỗ… Đaphần những chiếc cối đá được tìm thấy ở miền Bắc, cả đồngbằng và miền núi. Những chiếc cối gỗ được tìm thấy ở miềnNam, đặc biệt là ở những vùng có người dân tộc sinh sống.Cối bằng gang chủ yếu được sử dụng ở thời kỳ gần đây.Kích cỡ của cối cũng có nhiều điểm khác nhau. Có cối tophải dùng chân để giã, cối nhỏ hơn thì dùng tay. Cá biệt cónhững bộ cối chầy chỉ nhỏ xíu như quả trứng, thường đúcbằng đồng, dùng chủ yếu để giã trầu cho các cụ già. Đi kèmvới cối giã trầu không phải là chầy mà là một chiếc dùi nhỏ,một đầu nhọn để ngoáy trầu, một đầu to, tròn và nặng hơnđể đập miếng trầu cho mềm.Cối giã trầu và dùi bằng đồng (1)Lòng cối thường khoét võng độ nửa gang cho đến một gang,tùy thuộc chất liệu làm cối cứng hay mềm, mài sơ cho đỡ ráp.Rồi theo thời gian, lòng cối thường sâu thêm, nhẵnthêm…t ...

Tài liệu được xem nhiều: