Danh mục

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN

Số trang: 41      Loại file: doc      Dung lượng: 461.50 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 4 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Định nghĩa: chính sách tiền tệ (money policy) do NHTW hoạch đinh và thực thi nhawmg o0onr định tiền tệ QG. Nếu NHTW phụ thuộc chính thuộc CP chì nếu có vấn đề lớn đến phải trình Quốc hội hoặc CP. Nếu NHTW là độc lập thì không phải trình CP. Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN 1. Định nghĩa: chính sách tiền tệ (money policy) do NHTW hoạch đinh và thực thi nhawmg o0onr định tiền tệ QG. Nếu NHTW phụ thuộc chính thuộc CP chì nếu có vấn đề lớn đến phải trình Quốc hội hoặc CP. Nếu NHTW là độc lập thì không phải trình CP - Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. Chính sách tiền tệ là hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các biện pháp như phát hành tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lí dự trữ ngoại tệ, tái chiết khấu các kì phiếu và lãi suất, chính sách lãi suất... để đáp ứng kịp thời nhu cầu giao dịch, ổn định sức mua của đồng tiền, phát triển sản xuất, kinh doanh trong một giai đoạn nhất định. Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lí kinh tế của nhà nước, trên cơ sở vận dụng đúng đắn quy luật của sản xuất hàng hoá và quy luật lưu thông tiền tệ để tổ chức tốt quá trình chu chuyển tiền tệ. Chính sách tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của sản xuất - kinh doanh, thực hiện sự kiểm tra có hiệu lực của nhà nước ở tầm vĩ mô cũng như ở tầm vi mô. Chính sách tiền tệ là một hệ thống các biện pháp do ngân hàng trung ương thực hiện nhằm tác động lên mức độ hoạt động kinh tế. Mục tiêu hàng đầu của ngân hàng trung ương ở nhiều nước là kiểm soát lạm phát và giám sát hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động của cơ quan này cũng ảnh hưởng đến các khía cạnh khác của nền kinh tế, như mức GDP thực, thất nghiệp và tỉ giá hối đoái. Ở Việt Nam trong thập niên qua, Ngân hàng Nhà nước nhìn chung đã duy trì một chính sách tiền tệ tương đối kiềm chế. Chính sách này đã thành công trong việc giảm lạm phát từ mức ba con số ở cuối thập niên 1980 xuống mức tương đối ổn như hiện nay. Ngân hàng Nhà nước cũng đã thực hiện một số cải cách khu vực tài chính bao gồm việc từng bước tự do hóa lãi suất. Trong khi tiến trình cải cách ngân hàng và tài chính vẫn tiếp tục ở Việt Nam, việc thực hiện chính sách tiền tệ cũng sẽ biến chuyển, dẫn đến một sự phân bổ tốt hơn các nguồn lực tài chính, cũng như sự cải thiện về hiệu quả chung của chính sách tiền tệ. 4.5.2.Nội dung của chính sách tiền tệ Nội dung của chính sách tiền tệ xét về mặt định tính ta có thể thấy đó là chính sách thắt chặt tiền tệ hoặc chính sách mở rộng tiền tệ. Nếu nền kinh tế đang ở trong tình trạng lạm phát cao đòi hỏi phải thực hiện một chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát. Ngược lại, nếu nền kinh tế đang ở trong tình trạng suy thoái thì chính sách tiền tệ cần phải được mở rộng. Về mặt định lượng chính sách tiền tệ cần phản ánh khối lượng tiền tệ cung ứng tăng lên (hay giảm bớt) trong một khoảng thời gian nhất định bao gồm tiền mặt và chuyển khoản. Để xây dựng các giải pháp tác động và sử dụng các công cụ để vận hành chính sách tiền tệ, nội dụng của chính sách tiền tệ gồm ba bộ phận hợp thành: chính sách cung ứng và điều hòa khối tiền, chính sách tín dụng và chính sách về ngoại hối. 4.5.3.Những công cụ để thực thi chính sách tiền tệ Để vận hành chính sách tiền tệ đạt được như hoạch định, ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ sau đây và thông qua các công cụ này nhà nước cũng sử dụng các quan hệ tiền tệ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. *Dự trữ bắt buộc: tất cả các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đều bắt buộc phải thực hiện dự trữ bắt buộc theo một tỷ lệ phần trăm tính trên tổng nguồn vốn huy động. Về cơ cấu mức dự trữ bắt buộc được phép tồn tại dưới 3 hình thức: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi bắt buộc ở ngân hàng trung ương, dự trũ bằng chứng khóan, đấy là công cụ trực tiếp và có hiệu nghiệm. Nếu dự trữ bắt buộc tăng làm cho nguồn vón cho vay của ngân hàng thương mại giảm kéo theo khối tiền tệ giảm. Nếu dự trữ bắt buộc giảm làm cho nguồn vón cho vay của ngân hàng thương mại tăng kéo theo khối tiền tệ tăng. Các nhà nghiên cứu cho thấy rằng chỉ cần một sự thay đổi nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tác động của nó đến khối tiền tệ và khối tín dụng rất lớn. *Lãi suất: là một công cụ chủ yếu để điều chỉnh gián tiếp giữa cung và cầu tín dụng. Để phát huy được tác dụng của công cụ lãi suất, cần quán triệt một số điểm có tính ngtắc khi vận dụng công cụ lãi suất: • Lãi suất thực không thể cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quan của nền kinh tế (biểu hiện qua tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội). • Lãi suất cho vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân. Phần lớn hơn phải thỏa mãn bù đắp chi phí, thuế, phòng ngừa rủi ro..và tiền lãi ngân hàng. • Lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Để sử dụng lãi suất tín dụng với tư cách là công cụ của chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể: • Ổn định lãi suất: tối đa cho tiền gửi và tối thiểu cho tiền vay hoặc tối đa cho tiền vay và tối thiểu cho tiền gửi (nếu muốn bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của ngân hàng thương mại. • Thả nổi lãi suất: lãi suất sẽ được thả nổi thông qua thị trường tiền tệ, tuy nhiên với tư cách là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương sẽ tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và tiền vay của ngân hàng thương mại bằng lãi suất tái chiết khấu đểđiều tiết cung-cầu tín dụng, điều tiết khối lượng tiền tệ của nền kinh tế. Như vậy trong nền kinh tế thị trường với hệ thống ngân hàng hai cấp trong đó cãc ngân hàng thương mại nhạy cảm với cơ chế thị trường, thì lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng trung ương trở thành công cụ linh hoạt để thực hiện chính sách tiền tệ. *Tái chiết khấu: tái chiết khấu nói riêng và tái cấp vốn nói c ...

Tài liệu được xem nhiều: