CHƯƠNG IV: TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Số trang: 12
Loại file: doc
Dung lượng: 4.00 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Chương này giới thiệu thị trường tiền tệ và các chính sách tiền tệ mà ngân hàng trung ương sử dụng để can thiệp vào thị trường tiềntệ. Phần cuối chương giới thiệu mối tương tác giữa thị trường hàng hoá và tiền thông qua mô hình IS – LM, cùng với các chính sách mà chínhphủ sử dụng để tác động đến thị trường hàng hoá và tiền tệ.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHƯƠNG IV: TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CHƯƠNG IV TIỀNTỆVÀCHÍNHSÁCHTIỀNTỆ Chương này giới thiệu thị trường tiền tệ và các chính sách tiền tệ mà ngân hàng trung ương sử dụng để can thiệp vào thị trường tiền tệ. Phần cuối chương giới thiệu mối tương tác giữa thị trường hàng hoá và tiền thông qua mô hình IS – LM, cùng với các chính sách mà chính phủ sử dụng để tác động đến thị trường hàng hoá và tiền tệ. 1. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 1.1.Tiền tệ. 1.1.1.Tiền tệ là gì? Tiền là mọi thứ được chấp nhận rộng rãi làm phương tiện mua hàng hoá và dịch vụ. Tiền có ba chức năng cơ bản: Phương tiện trao đổi: là một thứ mà người mua trao cho người bán khi mua hàng hóa và dịch vụ. Sở dĩ tiền có thể đảm nhận chức năng quan trọng này vì nó được chấp nhận rộng rãi như là phương tiện trao đổi. Đơn vị kế toán hay đơn vị tiền tệ kế toán: toàn bộ giá cả đều được qui về một đơn vị là đồng Đô la, đồng Yen hay đồng Việt Nam …Điều này làm cho việc so sánh các giá trị tương đối trở nên dễ dàng hơn. Chức năng đơn vị hạch toán của tiền chỉ ra rằng sự tiện lợi có một phương tiện được chấp nhận rộng rãi để định giá và ghi sổ sách. Phương tiện bảo tồn giá trị: tiền là một hình thức để chuyển sức mua từ hiện tại sang tương lai. Với chức năng này dân cư có thể lựa chọn giữ một số của cải trực tiếp bằng tiền. Tuy nhiên, trong điều kiện có lạm phát giá trị của tiền giảm theo thời gian. Điều này làm cho tiền trở thành một phương tiện bảo tồn không hiệu quả. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ khả năng thanh toán để chỉ mức độ dễ dàng đổi một tài sản thành phương tiện trao đổi của nền kinh tế. Vì tiền là phương tiện trao đổi của nền kinh tế, nên nó là tài sản có khả năng thanh khoản cao nhất, các tài sản khác nhau có khả năng thanh khoản rất khác nhau. Phần lớn cổ phiếu, trái phiếu có thể bán dễ dàng với chi phí thấp và vì vậy chúng là những loại tài sản có khả năng thanh khoản tương đối cao. 1.1.2. Các loại tiền. Quá trình phát triển của tiền trải qua các hình thái sau: Tiền bằng hàng hoá: khi tồn tại dưới hình thức hàng hoá có giá trị cố hữu, tiền được gọi là tiền hàng hoá. Thuật ngữ giá trị cố hữu hàm ý hàng hoá đó có giá trị ngay cả khi nó không được sử dụng làm tiền. Một ví dụ về tiền hàng hoá điển hình nhất là vàng. Vàng có giá trị cố hữu bởi vì nó được sử dụng trong công nghiệp và chế tác đồ trang sức. Khi tiền không có giá trị cố hữu, nó được gọi là tiền pháp định. Đây là loại tiền được lưu hành do luật lệ của chính phủ qui định. Giá trị ghi trên đồng tiền qui ước thường lớn hơn rất nhiều so với giá trị vật dùng làm tiền. Tiền qui ước cũng bao gồm hai dạng tiền kim loại và tiền giấy. Tiền kim loại: thời kỳ đầu thường dùng các kim loại quí như bạc, vàng. Về sau dùng các hợp kim rẽ tiền hơn. Tiền kim loại ngày nay thường có giá trị nhỏ và các chi tiêu thông qua phương tiện bán hàng tự động. Tiền giấy: tiền giấy bao gồm tiền giấy khả hoán ( loại tiền có thể đem đổi được bạc hoặc vàng với một lượng giá trị tương đương.) và tiền giấy bất khả hoán (lọai tiền bắt buộc lưu hành theo luật định, không thể mang chúng đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Ngày nay các quốc gia đều dùng loại tiền giấy bất khả hoán). Tiền ngân hàng: là lượng tiền gửi không kỳ hạn sử dụng séc. Đây là số tiền ghi nợ của ngân hàng đối với người mở tài khoản séc tại ngân hàng. Séc là một kiểu giấy nợ có thể thanh toán theo yêu cầu của người chủ gửi tiền. Nó cho phép tiến hành thanh toán mà không dùng tiền mặt. 1.1.3. Khối lượng tiền tệ. Việc định nghĩa tiền là một phương tiện trao đổi mới chỉ đưa ra một cách khái quát về tiền, nó chưa cho chúng ta biết rõ trong nền kinh tế hiện nay khối lượng của nó nhiều hay ít. Vì vậy người ta phải định nghĩa tiền bằng việc đưa ra các phép đo về khối tiền trong lưu thông. Có 3 thước đo khối tiền trong nền kinh tế được ký hiệu lần lượct là M1, M2, M3. Khối tiền giao dịch M1: phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán và chi trả về hàng hoá và dịch vụ bao gồm:Tiền mặt trong lưu thông đó chính là bộ phận tiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng, Tiền gửi có thể phát hành séc tại các ngân hàng. Khối tiền mở rộng M2: Khối tiền M2 sẽ bằng khối tiền M1 cộng với tiền gửi có kỳ hạn tại ngân hàng thương mại hay các tổ chức tài chính trung gian. Khối tiền tài sản M3: bằng khối tiền M2 cộng với trái khoán như hối phiếu, tín phiếu kho bạc. Khối tiền M2 và M3 không được sử dụng như một công cụ trao đổi, nhưng chúng có tính thanh khoản cao.Tài sản tiền gửi có thể phát hành séc là tiền nhưng những tờ séc không phải là ti ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHƯƠNG IV: TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CHƯƠNG IV TIỀNTỆVÀCHÍNHSÁCHTIỀNTỆ Chương này giới thiệu thị trường tiền tệ và các chính sách tiền tệ mà ngân hàng trung ương sử dụng để can thiệp vào thị trường tiền tệ. Phần cuối chương giới thiệu mối tương tác giữa thị trường hàng hoá và tiền thông qua mô hình IS – LM, cùng với các chính sách mà chính phủ sử dụng để tác động đến thị trường hàng hoá và tiền tệ. 1. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ 1.1.Tiền tệ. 1.1.1.Tiền tệ là gì? Tiền là mọi thứ được chấp nhận rộng rãi làm phương tiện mua hàng hoá và dịch vụ. Tiền có ba chức năng cơ bản: Phương tiện trao đổi: là một thứ mà người mua trao cho người bán khi mua hàng hóa và dịch vụ. Sở dĩ tiền có thể đảm nhận chức năng quan trọng này vì nó được chấp nhận rộng rãi như là phương tiện trao đổi. Đơn vị kế toán hay đơn vị tiền tệ kế toán: toàn bộ giá cả đều được qui về một đơn vị là đồng Đô la, đồng Yen hay đồng Việt Nam …Điều này làm cho việc so sánh các giá trị tương đối trở nên dễ dàng hơn. Chức năng đơn vị hạch toán của tiền chỉ ra rằng sự tiện lợi có một phương tiện được chấp nhận rộng rãi để định giá và ghi sổ sách. Phương tiện bảo tồn giá trị: tiền là một hình thức để chuyển sức mua từ hiện tại sang tương lai. Với chức năng này dân cư có thể lựa chọn giữ một số của cải trực tiếp bằng tiền. Tuy nhiên, trong điều kiện có lạm phát giá trị của tiền giảm theo thời gian. Điều này làm cho tiền trở thành một phương tiện bảo tồn không hiệu quả. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ khả năng thanh toán để chỉ mức độ dễ dàng đổi một tài sản thành phương tiện trao đổi của nền kinh tế. Vì tiền là phương tiện trao đổi của nền kinh tế, nên nó là tài sản có khả năng thanh khoản cao nhất, các tài sản khác nhau có khả năng thanh khoản rất khác nhau. Phần lớn cổ phiếu, trái phiếu có thể bán dễ dàng với chi phí thấp và vì vậy chúng là những loại tài sản có khả năng thanh khoản tương đối cao. 1.1.2. Các loại tiền. Quá trình phát triển của tiền trải qua các hình thái sau: Tiền bằng hàng hoá: khi tồn tại dưới hình thức hàng hoá có giá trị cố hữu, tiền được gọi là tiền hàng hoá. Thuật ngữ giá trị cố hữu hàm ý hàng hoá đó có giá trị ngay cả khi nó không được sử dụng làm tiền. Một ví dụ về tiền hàng hoá điển hình nhất là vàng. Vàng có giá trị cố hữu bởi vì nó được sử dụng trong công nghiệp và chế tác đồ trang sức. Khi tiền không có giá trị cố hữu, nó được gọi là tiền pháp định. Đây là loại tiền được lưu hành do luật lệ của chính phủ qui định. Giá trị ghi trên đồng tiền qui ước thường lớn hơn rất nhiều so với giá trị vật dùng làm tiền. Tiền qui ước cũng bao gồm hai dạng tiền kim loại và tiền giấy. Tiền kim loại: thời kỳ đầu thường dùng các kim loại quí như bạc, vàng. Về sau dùng các hợp kim rẽ tiền hơn. Tiền kim loại ngày nay thường có giá trị nhỏ và các chi tiêu thông qua phương tiện bán hàng tự động. Tiền giấy: tiền giấy bao gồm tiền giấy khả hoán ( loại tiền có thể đem đổi được bạc hoặc vàng với một lượng giá trị tương đương.) và tiền giấy bất khả hoán (lọai tiền bắt buộc lưu hành theo luật định, không thể mang chúng đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Ngày nay các quốc gia đều dùng loại tiền giấy bất khả hoán). Tiền ngân hàng: là lượng tiền gửi không kỳ hạn sử dụng séc. Đây là số tiền ghi nợ của ngân hàng đối với người mở tài khoản séc tại ngân hàng. Séc là một kiểu giấy nợ có thể thanh toán theo yêu cầu của người chủ gửi tiền. Nó cho phép tiến hành thanh toán mà không dùng tiền mặt. 1.1.3. Khối lượng tiền tệ. Việc định nghĩa tiền là một phương tiện trao đổi mới chỉ đưa ra một cách khái quát về tiền, nó chưa cho chúng ta biết rõ trong nền kinh tế hiện nay khối lượng của nó nhiều hay ít. Vì vậy người ta phải định nghĩa tiền bằng việc đưa ra các phép đo về khối tiền trong lưu thông. Có 3 thước đo khối tiền trong nền kinh tế được ký hiệu lần lượct là M1, M2, M3. Khối tiền giao dịch M1: phương tiện được sử dụng rộng rãi trong thanh toán và chi trả về hàng hoá và dịch vụ bao gồm:Tiền mặt trong lưu thông đó chính là bộ phận tiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng, Tiền gửi có thể phát hành séc tại các ngân hàng. Khối tiền mở rộng M2: Khối tiền M2 sẽ bằng khối tiền M1 cộng với tiền gửi có kỳ hạn tại ngân hàng thương mại hay các tổ chức tài chính trung gian. Khối tiền tài sản M3: bằng khối tiền M2 cộng với trái khoán như hối phiếu, tín phiếu kho bạc. Khối tiền M2 và M3 không được sử dụng như một công cụ trao đổi, nhưng chúng có tính thanh khoản cao.Tài sản tiền gửi có thể phát hành séc là tiền nhưng những tờ séc không phải là ti ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kinh tế vĩ mô tiền tệ chính sách tiền tệ thị trường tiền tệ thị trường hàng hoá và tiền mô hình IS – LMGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - TS. Lê Bảo Lâm
144 trang 716 21 0 -
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 570 0 0 -
Phương pháp nghiên cứu nguyên lý kinh tế vi mô (Principles of Microeconomics): Phần 2
292 trang 536 0 0 -
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 324 0 0 -
293 trang 284 0 0
-
Giáo trình Kinh tế vĩ mô 1: Phần 1 - ĐH Thương mại
194 trang 267 0 0 -
Thống kê tiền tệ theo tiêu chuẩn quốc tế và thực trạng thống kê tiền tệ tại Việt Nam
7 trang 265 0 0 -
38 trang 231 0 0
-
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - PGS.TS. Nguyễn Văn Dần (chủ biên) (HV Tài chính)
488 trang 229 1 0 -
Một số vấn đề về lời nguyền tiền mặt: Phần 2
118 trang 226 0 0