Danh mục

Chương IX: Vấn đề vận chuyển code trong ANIPv6

Số trang: 5      Loại file: doc      Dung lượng: 74.00 KB      Lượt xem: 17      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 0 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

AIPv6 node có thể xử lý IPv6 node và có thể được triển khai trong mạngIPv6. Nếu kỹ thuật truyền code thiết lập code trong IPv6 packets mà trong quátrình thực thi, các IPv6 nodes gặp lỗi thì AIPv6 packets sẽ không đến đượcđích. Bất kỳ giải pháp nào đều phải tránh vấn đề ấy để có thể đạt được sửhòa hợp giữa các IPv6 nodes.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chương IX: Vấn đề vận chuyển code trong ANIPv6 IP v6Tácgiả: LêAnhĐưc ́Chương IX: Vấn đề vận chuyển code trong ANIPv6Chương này mô tả về vấn đề thiết kế và hiện thực kỹ thuật truyền code bởiAIPv6 Node. Mục đích của việc tích hợp khả năng demand-load vào IPv6 I.AIPv6 node có thể xử lý IPv6 node và có thể được triển khai trong mạngIPv6. Nếu kỹ thuật truyền code thiết lập code trong IPv6 packets mà trong quátrình thực thi, các IPv6 nodes gặp lỗi thì AIPv6 packets sẽ không đến đượcđích. Bất kỳ giải pháp nào đều phải tránh vấn đề ấy để có thể đạt được sửhòa hợp giữa các IPv6 nodes.Giải pháp được đề nghị cũng phải làm việc trong sự đặt tả IPv6 sẵn có.IANA cũng định nghĩa một giải pháp Active protocol. Nếu một giải phápkhông thể dùng được cho IPv6 network thì giải pháp ấy cũng vô dụng. II. Demand-load protocol trong ANTSANTS (Active Node Transport System) đã được nhắc đến trong chương 1.ANTS là cách tiếp cận in-band. Nó dùng một kỹ thuật load code in-band. Cơchế của nó là một node, load code của một packet vào bộ nhớ của nó trongkhi xử lý packet đó. Version cuối cùng của kỹ thuật này đòi hỏi mỗi packetphải mang cả code lẫn giá trị trạng thái tương ứng nhằm mục đích: packetđều có thể được xử lý bởi mỗi node mà nó đi qua. Theo cách đó, thậm chí cácpackets liền kề nhau được xử lý bởi code giống nhau, thì mỗi packet vẫnmang mỗi đoạn code riêng biệt.ANTS loại trừ code dư thừa này bằng cách dùng demand-load protocol. Thayvì vận chuyển code ở trên mỗi packet, ANTS tin tưởng vào các node thuộckiến trúc của nó để gửi yêu cầu cần cung cấp code (code request) khi chúngkhông có code để xử lý packet. Trong cách hiện thực ANTS hiện nay, mộtnode chỉ gửi một code request tới node kề theo hướng ngược lại (upstreamnode). Khi nhận được code response từ upstream node, requesting node lưucode trong cache trong một thời gian có giới hạn. Sau đó requesting node sẽdùng code ấy xử lý tất cả các packets liên tiếp có cùng định danh. Quá trìnhdemand loading được minh họa trong hình sau.Các bước trong giao thức ở hình trên có thể được miêu tả như sau: 1. Một capsule được forward bởi một active node (previous node) có sở h ữu code để xử lý capsule. Trước khi capsule được gửi thì trường previous address trong định dạng của capsule sẽ được thiết lập. 2. Khi capsule đến active node tiếp theo (loading node) và trong trường h ợp code trùng với type của nó bị thiếu thì một load request capsule sẽ đ ược sinh ra và được gửi cho node được xác định bởi trường previous address. 3. Khi load request đến previous node thì các load response capsule sẽ đ ược t ạo ra, trong đó sẽ chứa code và những thứ cần thiết để load code. 4. Khi lode response đến loading node thì chúng sẽ được tái t ạo lại để xây d ựng code group tương ứng. Sau đó, quá trình load code hoàn t ất, code group sau đó sẽ được sử dụng để forward capsule. Bởi vì quá trình này đã chứa code trong packet và được chuyển đi trên mạng, nên ứng dụng chỉ cần nhúng thông số trạng thái vào các mẫu phù hợp của code.ANTS demand load protocol có các đặc tính tốt. Thứ nhất, code lập trình chỉgửi tới những node nào có request thôi. Vì vậy ứng dụng không cần phải xácđịnh trước đường đi của packet và sau đó upload code cho tất cả các node màpacket đi qua, càng không cần phải broadcast programming code tới toàn bộmạng. Hơn nữa, vì hầu hết các protocol thường dùng một dòng các packets,nên overhead của việc khởi tạo demand load sẽ được giảm dần theo con sốpacket gửi đi . Tuy nhiên overhead sẽ lớn nếu dòng các packets nhỏ quá. III. Những lựa chọn cho việc vận chuyển code:Phần này mô tả và phân tích về sự lựa chọn cho việc kết hợp giữa ActiveNetwork vào IPv6 Network. i. Tunneling:Tunneling là cách để đóng gói một protocol vào trong một protocol khác.Tunneling được dùng khi 2 node không nhìn thấy nhau bằng các protocol riêngbiệt của mình.Lợi ích của tunneling là một node tách biệt có thể kết nối đến active networkover IPv6 mà không làm hỏng mạng đó. Tunneling có thể hoạt động trênMobileBone và 6bone.Tunneling không thể hòa nhập hoàn toàn vào active network như một thànhviên của active network được. ANTS capsule được đóng gói thành dạng IPv6trước khi gửi vào mạng Active node. Công việc này là tác động ở lớp datalink. Một ứng dụng chạy trên IPv6 node nguyên thủy sẽ không bao giờ tươngtác với Active protocol, bởi vì IPv6 node nguyên thủy của ứng dụng ấy khôngbao giờ xử lý các Active packet đã được phân phát trước cho ứng dụng ấy. ii. Dùng Gateways:Một khả năng nữa là tunnel giữa các Active node và sau đó bỏ đi Activepayload trước khi Active packet được gởi đi trên mạng IPv6. Công việc nàyđảm bảo thao tác giữa các Active node và các non-Active node. Loại lượt đồnày yêu cầu một Active node phải chức năng hóa cả một router và mộtg ...

Tài liệu được xem nhiều: