Thông tin tài liệu:
Khi bàn về các hình thức sở hữu và mô hình hoạt động của các công ty kiểm toán ở Việt Nam, có thể nhận xét rằng qua gần 13 năm hoạt động (1991-2003) của ngành kiểm toán độc lập Việt Nam chưa có quy định nào cụ thể và riêng biệt về các hình thức sở hữu của các công ty kiểm toán hoạt động tại Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chuyển đổi mô hình quản lý và chuyển đổi sở hữu công ty kiểm toán nhằm nâng cao năng lực hoạt động và cơ hội phát triển
Chuyển đổi mô hình quản lý và chuyển đổi sở hữu công ty kiểm toán nhằm nâng cao
năng lực hoạt động và cơ hội phát triển
Khi bàn về các hình thức sở hữu và mô hình hoạt động của các công
ty kiểm toán ở Việt Nam, có thể nhận xét rằng qua gần 13 năm hoạt
động (1991-2003) của ngành kiểm toán độc lập Việt Nam chưa có
quy định nào cụ thể và riêng biệt về các hình thức sở hữu của các
công ty kiểm toán hoạt động tại Việt Nam.
Chúng ta cùng nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán độc
lập ở Việt Nam: Được thành lập từ năm 1991 với sự ra đời của hai công ty
kiểm toán đầu tiên có sở hữu vốn của Nhà nước. Sau đó là một số công ty
kiểm toán nước ngoài thành lập và hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài
với mô hình trách nhiệm hữu hạn (TNHH). Nhiều công ty kiểm toán sở hữu
tư nhân theo mô hình TNHH được thành lập sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Một số
công ty cổ phần kiểm toán có sở hữu tư nhân cũng đã được thành lập từ mấy năm trước đây
theo nhu cầu hợp tác của các công ty kiểm toán tư nhân. Trong xu thế chung về việc sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nước nói chung và các công ty thuộc Bộ Tài chính quản lý nói riêng, gần
đây Bộ Tài chính đã cổ phần hóa 02 công ty, chuyển đổi 01 công ty thành công ty TNHH một
thành viên. Tính đến thời điểm hiện nay, tại Việt Nam, các công ty kiểm toán đang tồn tại 7 hình
thức sở hữu và mô hình quản lý là: TNHH tư nhân, TNHH có vốn đầu tư nước ngoài, TNHH có
sở hữu của Nhà nước, công ty cổ phần sở hữu tư nhân, công ty cổ phần nhà nước, công ty hợp
danh và công ty nhà nước.
Tại Điều 20 của Nghị định 105/2004/NĐ-CP về kiểm toán độc lập và Nghị định 133/2005/NĐ-
CP sửa đổi Nghị định 105 do Chính phủ ban hành có quy định rõ là các công ty kiểm toán được
thành lập và hoạt động theo một trong bốn mô hình sau: công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công
ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH. Với quy định này, được hiểu là các công ty
kiểm toán có sở hữu nước ngoài sẽ luôn được thành lập và hoạt động theo mô hình TNHH theo
quy định của Luật Đầu tư; đồng thời, sẽ không có mô hình công ty kiểm toán là công ty cổ phần,
doanh nghiệp nhà nước. Đối với công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước (bao gồm công ty nhà
nước và công ty TNHH một thành viên) cần phải chuyển đổi xong trước ngày 21/4/2007.
Như vậy, việc chuyển đổi mô hình quản lý (đối với các công ty cổ phần kiểm toán) và chuyển
đổi sở hữu (đối với các công ty cổ phần kiểm toán có sở hữu của Nhà nước và các doanh
nghiệp nhà nước) được coi là một bắt buộc mang tính pháp lý. Đồng thời, đây cũng là một nhu
cầu rất bức thiết của các công ty này vì yêu cầu của sự phát triển, vì yêu cầu của việc nâng cao
năng lực quản lý và năng lực cạnh tranh. Các lý do chủ yếu được phân tích là:
1. Thông lệ và xu thế tất yếu phát triển ngành nghề kế toán, kiểm toán trên thế giới. Việt Nam
không thể nằm ngoài xu thế này. Dù các quy định này được ban hành hơi chậm, nhưng các
công ty kiểm toán của Việt Nam đã sẵn sàng cho việc chuyển đổi, và coi việc chuyển đổi này
như là một trong những cơ hội tốt để các công ty tiếp tục phát triển và thành công.
2. Với cam kết gia nhập WTO và với chiến lược sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước của Việt
Nam, không thể có sự tiếp tục tồn tại các công ty kiểm toán có sở hữu Nhà nước. Thêm nữa,
các Tổ chức tài trợ quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài thường thuê các công ty kiểm toán
danh tiếng, có chất lượng đã được khẳng định và đặc biệt là phải có tính độc lập, minh bạch rất
cao để kiểm toán, phù hợp với yêu cầu của Công ty mẹ cũng như của các nhà đầu tư trên toàn
thế giới.
3. Đối với các công ty kiểm toán có sở hữu vốn của nhà nước, việc chuyển đổi sở hữu còn có
tác động tích cực và mạnh mẽ trên một số mặt quan trọng sau:
- Chủ động hoàn toàn trong chính sách trả lương cho nhân viên - không bị khống chế tỷ lệ quỹ
lương; không bị trừ quỹ lương theo cơ chế “Lợi nhuận năm sau phải cao hơn năm trước và
không được thấp hơn lợi nhuận kế hoạch”. Điều này thực sự quan trong vì nó cho phép các công
ty được trả lương cao để thu hút các nhân viên giỏi, đồng thời cho phép công ty chủ động đầu tư
chi phí vào đào tạo và nâng cao chất lượng nhân viên và chất lượng dịch vụ;
- Tăng cường trách nhiệm cá nhân của các thành viên Ban Giám đốc trong việc điều hành công
ty, quản lý và nâng cao chất lượng dịch vụ gắn với trách nhiệm vật chất;
- Các thành viên của Ban Giám đốc các công ty sau khi chuyển đổi cũng phải có trách nhiệm
trong việc nâng cao năng lực cá nhân cả về diều hành và kiến thức chuyên môn để duy trì ổn
định hoạt động và tiếp tục phát triển công ty cao hơn;
- Giải quyết hoàn toàn tính độc lập nghề nghiệp do ảnh hưởng bởi sở hữu Nhà nước.
- Tuy nhiên, việc chuyển đổi các công ty kiểm toán cũng sẽ gặp không ít khó khăn do các qui
định pháp lý về chuyển đổi chưa đầy đủ, chưa sát với thực tế hoạt động của các công ty đã có
thời gian hoat động dài trên 10 năm (và 15 năm), trong khi đó mỗi công ty lại đang ở một mô
hình quản lý khác nhau.
- Chúng tôi xin có hai ý kiến liên quan đến quy định về việc thành lập và hoạt động đối với
doanh nghiệp kiểm toán hoạt động theo mô hình công ty TNHH tại Thông tư 60/2006/TT-BTC
của Bộ Tài chính, đề nghị Bộ Tài chính xem xét lại, đó là:
- Theo quy định tại Phần II mục 1b của Thông tư 60: Thành viên của công ty có thể là cá nhân
hoặc tổ chức, và tổ chức có thể lại là một doanh nghiệp nhà nước cử đại diện tham gia. Như
vậy, yêu cầu về chuyển đổi loại hình doanh nghiệp kiểm toán tách ra khỏi sở hữu Nhà nước để
đảm bảo tính độc lập, khách quan, minh bạch lại không đạt được;
- Theo quy định tại điểm 4 mục II Thông tư 60: Chúng tôi hiểu là các thành viên được phép tự do
chuyển nhượng phần v ...