Thuật ngữ “thư pháp chữ Việt” ở đây nhằm chỉ nghệ thuật viết chữ quốc ngữ (ký tự Latinh) để phân biệt với thư pháp chữ Hán ở Việt Nam trước đây.
.Thư pháp Hoa Nghiêm
Trong những năm gần đây, một loại hình được gọi là “thư pháp chữ Việt” hoặc “thư pháp tiếng Việt” phát triển rầm rộ, trở thành một hiện tượng, bởi số đông quần chúng ngày càng có khuynh hướng thích treo chữ trong nhà mình, nhiều tranh, thiệp, quà tặng có “thư pháp chữ Việt” tiêu thụ khá mạnh vào những dịp lễ, Tết. Và xoay...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CÓ HAY KHÔNG THƯ PHÁP CHỮ VIỆT
CÓ HAY KHÔNG THƯ PHÁP CHỮ VIỆT
Thuật ngữ “thư pháp chữ Việt” ở đây nhằm chỉ nghệ thuật viết chữ
quốc ngữ (ký tự Latinh) để phân biệt với thư pháp chữ Hán ở Việt Nam
trước đây.
Thư pháp Hoa Nghiêm
Trong những năm gần đây, một loại hình được gọi là “thư pháp chữ
Việt” hoặc “thư pháp tiếng Việt” phát triển rầm rộ, trở thành một hiện
tượng, bởi số đông quần chúng ngày càng có khuynh hướng thích treo
chữ trong nhà mình, nhiều tranh, thiệp, quà tặng có “thư pháp chữ
Việt” tiêu thụ khá mạnh vào những dịp lễ, Tết. Và xoay quanh “thư
pháp chữ Việt” vẫn còn nhiều quan niệm, ý kiến khác nhau. Có người
không đồng tình, có người chấp nhận ở mặt này, không tán thành ở mặt
khác, chưa đi đến chỗ thống nhất. Vì vậy, trước khi tìm hiểu về “thư
pháp chữ Việt”, tưởng cần đặt lại vấn đề : có hay không thư pháp chữ
Việt ? Để được khách quan, xin trích lại những ý kiến chung nhất, và từ
đó đưa ra kết luận.
Tổng hợp nhiều ý kiến ta thấy rằng có 3 quan điểm chính :
(1). Quan điểm không đồng tình hoặc chưa đồng tình với thư pháp chữ
Việt :
Ở quan điểm này, phần lớn là những người am hiểu về Hán văn. Và
thường lấy thư pháp chữ Hán làm chuẩn mực.
Trong bài viết “Bách thư gia chư tử Việt”, tác giả Phạm Hoàng Quân
có đọan viết : “ (…) Đem đối chiếu với lịch sử thư pháp Trung Quốc
thấy rõ, chúng ta đã rất thiếu qui củ khi truyền dạy, quá nôn nóng nên
bỏ qua quá trình tinh luyện ; tự tu cả về kiến thức lẫn bút pháp, các tác
phẩm không có được chiều sâu tình cảm do được tạo nên bởi những đôi
tay, khối óc chưa hề rung động thực sự trước nội dung mà mình thực
hiện. Về hình thức diễn đạt, các “nhà thư pháp” chữ Việt hoặc lập lờ
trong tình trạng nửa vẽ nửa viết hoặc cố gắng phóng to thu nhỏ các ký
tự hoặc tạo sự bí hiểm để đánh đố người xem, tất cả những cách làm ấy
chỉ là thủ thuật hoặc kỹ thuật, bước đường hình thành môn nghệ thuật
này hãy còn xa lắm!” [69]
Bài viết “Thư pháp và tính đại chúng” của tác giả Nguyễn Xuân Tính
trên báo Tiền Phong (số 32, ra ngày 8/8/2004) có viết : “ (…) Trong
các cuốn từ điển phổ thông hoặc cuốn “Từ điển tiếng Việt”của nhà xuất
bản Khoa học xã hội, xuất bản năm 1977 đã định nghĩa : “Thư pháp là
phép viết chữ Hán”. Như vậy là đã rõ nghĩa, đó là phương pháp, là
cung cách viết chữ Hán của người Trung Quốc, chứ không phải là phép
viết chữ Việt, chữ “Tây”hoặc phép viết chung cho mọi loại chữ. (…)
Bản thân chữ Việt của chúng ta là một trong những loại chữ khoa học,
tiên tiến, được ghép theo vần Latinh nên không những nó khoa học hơn
so với một số loại chữ của các nước trong khu vực mà còn dễ viết, dễ
đọc và đẹp. Vì vậy, không nên bắt chước một cách tùy tiện. Đừng
tưởng rằng như thế là nghệ thuật, là sáng tạo mà vô hình trung đã làm
cho nó mất cả tính đại chúng, khiến người đọc người xem không hiểu
đó là chữ hay là một mớ bòng bong!”.
Một ý kiến khác của tác giả Nguyễn Chu Nhạc thì cho rằng : “Đã có
nhiều ý kiến xung quanh việc này, khen chê đủ cả. Riêng mình tôi cũng
đã xem khá kỹ. Tôi hiểu các nhà thư pháp tiếng Việt nóng ruột, muốn
làm một cái gì đấy vừa sáng tạo, vừa tôn vinh dân tộc. Dụng tâm thì tốt
nhưng hay dở thì còn phải bàn. Thiển nghĩ, nên trao đổi việc này trên
hai phương diện. Thứ nhất, nếu cho là thư pháp tiếng Việt nhằm tôn
vinh văn hóa dân tộc, thì xin hỏi mẫu tự Latinh của chữ Việt hiện đại
với lịch sử chỉ hơn một trăm năm, so với hai ngàn năm chữ Hán vào
Việt Nam và hàng ngàn năm chữ Nôm do ông cha ta nghĩ ra, tạo nên
một nền khoa bảng rực rỡ cùng cả kho tàng khổng lồ lịch sử văn hoá
bằng văn tự Hán Nôm kia, thứ nào dân tộc hơn? Thứ nữa, về phương
diện hình họa, chữ Hán là thứ chữ khởi nguồn tượng hình, đa dạng và
kỳ thú vô cùng, viết mà như họa, họa cũng có thể như viết, thế nên mới
có nghệ thuật thư pháp, thư họa; còn mẫu tự Latinh chỉ là các ký tự âm
thanh, chính vì thế người phương Tây đâu có thư pháp (bây giờ vi tính
có thể thực hiện được nhiều mẫu tự Latinh, song đâu phải là thư
pháp?). Với những lẽ ấy, thư pháp tiếng Việt mà một số người chủ
trương là thiếu cơ sở, nên thiếu sức sống….”
Qua đó, ta thấy nổi bật hai vấn đề:
Thứ nhất, các tác giả thường dựa vào thư pháp chữ Hán để bàn về thư
pháp chữ Việt (như dựa vào định nghĩa, dựa vào tính tượng hình của
chữ Hán)
Thứ hai, do tác động từ những bức “thư pháp chữ Việt” kém “chất
lượng”, mang tính thị trường đã ảnh hưởng xấu đến ý nghĩ của công
chúng. (viết xấu, khó đọc, là một mớ bòng bong!)
Thiết nghĩ, đây là những ý kiến phê bình, đóng góp quý báu, rất cần
cho “thư pháp chữ Việt”, nếu muốn tiến xa hơn nữa.
(2) Quan điểm chấp nhận và ủng hộ thư pháp chữ Việt
Nhìn chung, ở quan điểm này, chiếm số đông so với những người
không chấp nhận “thư pháp chữ Việt”
Nhà văn Nguyễn Quang Hà trong bài viết “Mùa xuân chơi thư pháp”
có ý kiến cổ vũ, ủng hộ cho thư pháp Việt : “(…) Rất may cho thư pháp
chữ Việt được quần chúng đồng tình, cổ vũ, yêu thích, đó là lời động
viên mạnh mẽ không gì bằng. Cũng rất cần có các nhà thư pháp chữ
Việt tiêu biểu để hướng tới và từ đó có lý luận vững vàng. Trước mắt
chúng ta, thư pháp chữ Việt mới hình thành các câu lạc bộ, bao giờ có
Viện đây ? Điều đó đòi hỏi các nhà thư pháp Việt Nam phải nỗ lực phi
thường.”. Và ông cũng đã hỏi nhà thơ, nhà thư pháp Trụ Vũ: “Chữ
Trung Quốc có các nét chính : chấm, phẩy, vạch ngang, sổ dọc, hất lên,
quai xước. Mỗi nét đã có chuẩn mực có hình tượng, bản thân mỗi chữ
Nho ấy đã là một bức tranh. Chữ Việt thì sao? ”. Trụ Vũ đáp: “ Viết thư
pháp là thể hiện cái hồn của mình. Có câu : “nhìn chữ biết người” là
vậy. Chữ Việt đâu thiếu đường nét ấy. Chẳng qua họ quá quen với chữ
Nho, nên nghi ngại thư pháp chữ Việt. Này nhé, xưa thời cổ trung đại
của Trung Quốc, bấy giờ mới có tranh thủy mặc. Từ đó đến nay mới có
thể kể đến tranh màu nước, tranh sơn dầu, tranh lập thể, tranh trừu
tượng. Các loại tranh đó đều được yêu mến, trân trọng và đặt cho một
cái tên rất đỗi tự hào : Hội họa hiện đại. Rõ ràng, không kể loại hình mà
phải kể tới tâm hồn người nghệ sĩ. Vậy thì chữ Nho cứ ...