Trong những năm gần đây, ở nhiều nơi trên khắp đất nước, “thư pháp chữ Việt” “thư pháp Quốc ngữ” (chữ Latinh) đã bắt đầu khởi sắc và trở thành phong trào phát triển khá mạnh mẽ. Hầu như chỗ nào ta cũng bắt gặp thư pháp chữ Việt. Từ việc in trên sách báo, viết trên lịch, đến vẽ trên áo, thêu trên vải, cũng như những cuộc triển lãm lớn, nhỏ ở khắp mọi nơi được công chúng quan tâm. Bên cạnh đó, cũng có không ít các câu lạc bộ, các lớp giảng dạy thư pháp được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
THƯ PHÁP CHỮ VIỆT TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
THƯ PHÁP CHỮ VIỆT TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
Trong những năm gần đây, ở nhiều nơi trên khắp đất nước, “thư pháp
chữ Việt” “thư pháp Quốc ngữ” (chữ Latinh) đã bắt đầu khởi sắc và
trở thành phong trào phát triển khá mạnh mẽ. Hầu như chỗ nào ta
cũng bắt gặp thư pháp chữ Việt. Từ việc in trên sách báo, viết trên lịch,
đến vẽ trên áo, thêu trên vải, cũng như những cuộc triển lãm lớn, nhỏ ở
khắp mọi nơi được công chúng quan tâm.
Bên cạnh đó, cũng có không ít các câu lạc bộ, các lớp giảng dạy thư
pháp được hình thành. Song, xung quanh “thư pháp chữ Việt” vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau, có người không đồng tình, có người chấp nhận
ở mặt này, không tán thành ở mặt khác. Các phương tiện thông tin đại
chúng cũng đã có sự quan tâm và tham gia vào “mổ xẻ” bộ môn nghệ
thuật này. Có nhiều ý kiến đóng góp xây dựng, có ý kiến gợi ý dẫn dắt,
cũng có ý kiến chê bai. Vì vậy, có thể thấy rằng sự xuất hiện của “thư
pháp chữ Việt” đã trở thành một hiện tượng văn hóa, và hơn nữa là cả
vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội, rất cần thiết để tìm tòi và suy
ngẫm.
Thư pháp Thế Mẫn - Đà Nẵng
1.Thư pháp theo các Từ điển tiếng Việt (Đoàn Văn Tập) và Từ điển
Hán – Việt (Đào Duy Anh) đều giải thích: là cách viết chữ. Còn từ
điển Anh – Việt (Nguyễn Văn Khôn) và Pháp – Việt (Đoàn Văn Tập)
thì thư pháp có nghĩa là nghệ thuật viết chữ đẹp, tài viết chữ đẹp, kiểu
viết chữ đẹp, viết nắùn nót. Theo chữ Hán: Thư ( ) là viết chữ; Pháp
) là cách thức, phương pháp. Hiểu ngắn gọn thư pháp là cách viết
(
chữ. Tương tự vậy, trong ngôn ngữ phương Tây ( chẳng hạn tiếng Anh
)_ thư pháp ( Calligraphy ) gồm hai từ Calli + graphy. Từ Calli do gốc
Hy Lạp là Kalli, phát sinh từ Kallos có nghĩa là vẻ đẹp ; còn từ Graphy
do gốc HyLap là Graphein nghĩa là viết chữ. Vậy thư pháp là cách viết
chữ_ hay nói khác đi là nghệ thuật thể hiện chữ viết. Xét như thế, thư
pháp rõ ràng là không phải là nghệ thuật của riêng dân tộc nào. Mọi
dân tộc có chữ viết đều có thể tạo ra thư pháp cho mình. Nghệ thuật thư
pháp vừa tạo nên giá trị thẩm mỹ, vừa có ý nghịa thực tiễn trong cuộc
sống của mọi người trên hành tinh của chúng ta.
Trong dòng chảy văn hóa truyền thống của các nước phương Đông –
thư pháp được xem như là một mạch ngầm, lặng lẽ tồn tại với thời gian
nhưng thư pháp lại có vị trí đáng kể và hàm chứa nhiều giá trị nhân
bản, đạo đức xã hội trong thế giới nghệ thuật. Nó thực sự đã vượt khỏi
chức năng thông tri của mình và đi thẳng vào thế giới tâm linh con
người. Chính vì thế cùng với hội họa, âm nhạc, thi ca….thư pháp được
nhìn nhận là nghệ thuật đặc thù “cao cấp” là biểu tượng thẩm mỹ của
các nền văn hóa dân tộc ở Phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản,
Triều Tiên, Việt Nam….
2..Thư pháp Việt Nam
a.Thư pháp chữ Hán Việt Nam
Ơû nước ta thư pháp có tự bao giờ? Thắc mắc này đến nay vẫn chưa
được giới chuyên môn xác định một cách cụ thể. Tuy nhiên với một số
di sản thư pháp chữ Hán do người Việt ta thủ bút, từ nhiều đời truyền
lại được lưu giữ đến nay, có thể xem đây là một bằng chứng về nguồn
sống sinh động của thư pháp chữ Hán trên đất Việt.
Có thể nói rằng “khởi thuỷ của thư pháp Việt Nam là văn tự Hán mà
người có công truyền bá đầu tiên của nước ta là Vương Sĩ Nhiếp (thời
nhà Hán những năm đầu công nguyên). Điều đặc biệt là ngay từ khi
chữ Hán được tiếp nhận, cha ông ta đã sớm nhận thức được đặc trưng,
bản chất của hệ văn tự này và sớm coi trọng nghệ thuật thư pháp”.(1).
Truyền thống yêu quí kính trọng chữ là truyền thống ngàn đời vừa sâu
xa, vừa bền chắc. Câu nói dân gian “Văn hay chữ tốt” đã trở thành
thành ngữ dành để ca ngợi những tài năng văn học và thư pháp vốn
không nhiều lắm ở mỗi thời.
Theo ông Phan Văn Các, nguyên viện trưởng viện Hán Nôm : “Di sản
Hán môn của chúng ta chỉ có thể tồn tại sau khi chiến thắng được sự
xâm thực huỹ hoại khắc nghiệt của khí hậu nóng ẩm nhiệt đới và sự
tâm phá muôn phần khắc nghiệt của các cuộc binh đao máu lửa kéo dài
suốt hàng trăm năm. Cho nên hệ quả hiển nhiên là ngày nay, khi muốn
dựng lại lịch sử thư pháp nước nhà, chúng ta trước hết phải tìm đến
những trang chữ viết trên đá”. Nếu đúng như vậy, thì tác phẩm thư
pháp đầu tiên của Việt Nam hiện tìm thấy được là dòng chữ Đại Tuỳ
Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn đắp theo lối chữ “triện”
trên trán bia ở làng Trường Xuân (Thanh Hoá), hiện đang trưng bày ở
việân bảo tàng lịch sử. Và có vô số những lệnh chỉ, sắc phong, các đại
tự, hoành phi, câu đối, áng văn, cổ vật,… đã lưu trữ nhiều tác phẩm thư
pháp quý giá_ chứng tích của một thời văn hoá phát triển cao. Dù trải
qua bao biến cố thời gian, những bức thư pháp trên đá, vẫn hiện rõ tâm
tính, chí khí của người muôn năm cũ.
(1). Hoàng Anh Sướng, Thư pháp Việt Nam – những nổi niềm thao
thức, tạp chí Thế giới mới, (số 522)
Xuôi theo dòng thời gian thư pháp chữ Hán tại Việt Nam cũng êm đềm
lặng lẽ như chính sự lặng lẽ của tự thân bộ môn thư pháp. Mặc dù ở
Việt Nam không có những bậc thư pháp kỹ tài đặc sắc như Trương
Húc, Vương Hy Chi,.. (Trung Hoa), hay Bạch Aån, Thiết Chu,.. ( Nhật
Bản), nhưng chúng ta cũng có những như danh sĩ tao nhân mặc khánh
lừng danh thư pháp nào kém phương Bắc, như : đại tự của chuá Trịnh
Sâm, hay nhà thơ Cao Bá Quát (1808 – 1855), Phan Bội Châu (1967 -
1940),…. Họ thể hiện được những đường nét bút tài hoa, sống động có
hồn. Đó cũngù chính là bản thể đích thực, là tinh hoa, sức sống mạnh
mẽ của thư pháp.
Quá trình phát triển của môn thư pháp chữ Hán tại Việt Nam, có lịch
sử hình thành tương tự bộ môn thư pháp tại Trung Hoa: đều xuất phát
từ tinh thần văn nghệ trong sáng lấy cảm hứng làm căn bản, lấy chủ đề
tạo cảm hứng”. Tuy nhiên về biểu hiện mỹ cảm có những điểm tương
đối khác biệt so với nghệ thuật thư pháp ở Trung Hoa. Nhìn chung
nghệ thuật viết chữ Hán ở người Việt luôn ở trong chừng mực. Nét bút
tuy bay bổng tài hoa nhưng luôn mô phạm, sâu lắng nhưng không trầm
tích, mềm mại nhưng không yếu đuối, phóng nhưng không cuồng… Cõ
lẽ vì vậy mà trong lịch sử thư pháp Việt Nam ta không có những bức
cuồng thư ...